60 năm trước, Bác Hồ viết "Cảnh rừng Việt Bắc" giữa "thủ đô gió ngàn"

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong
ngôi nhà sàn ở chiến khu Việt Bắc
trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp. Ảnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong ngôi nhà sàn ở chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh

Trong cuốn Hồ Chí Minh - thơ, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1975, bài thơ sau đây được in không kèm theo một lời chú thích, bình giải nào:

Cảnh rừng Việt Bắc

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót, chim kêu suốt cả ngày.
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

                   Năm 1947

Bài thơ sáng tác cách đây đúng 60 năm, được chọn đưa vào sách giáo khoa bậc trung học, cho nên hầu như ai ai có chút ít học thức ở nước ta hiện nay đều thuộc lòng. Thế nhưng, bài thơ ấy được sáng tác tại nơi nào cụ thể ở chiến khu Việt Bắc, và trong bối cảnh nào, thì sau bốn lần "du khảo" vùng Ðịnh Hóa vào những năm 1999, 2001, 2003 và 2006, cũng như tìm đọc một số cuốn hồi ký và lịch sử địa phương, tôi mới rõ dần.

Trong cuốn Nhật ký của một Bộ trưởng (Nhà xuất bản Ðà Nẵng), Bộ trưởng Lê Văn Hiến cho biết: Hạ tuần tháng 2-1947, sau chuyến Chủ tịch Hồ Chí Minh đi khảo sát Thanh Hóa trở về, Chính phủ mới quyết định chọn vùng trung tâm Việt Bắc làm ATK (an toàn khu). Là người thận trọng, thiết thực và có trực giác tiên tri thiên tài, Bác giao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng, lúc đó là Trưởng ban Tài chính Trung ương Ðảng, lo việc vận chuyển gần hai vạn tấn muối từ kho Vạn Lý (Nam Ðịnh) lên Việt Bắc và Tây Bắc trước khi quân Pháp đánh chiếm miền ven biển nước ta. Số muối ấy, về sau vừa vặn đủ cho cán bộ, nhân dân vùng căn cứ dùng trong suốt tám năm kháng chiến trường kỳ. Sự tiên đoán của Bác chính xác đến mức diệu kỳ!

Ngày 4-3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sơn Tây qua đò Trung Hà sang đất Phú Thọ trên đường lên ATK Việt Bắc. Cùng đi với Bác chỉ có tám cán bộ giúp Bác đủ mọi thứ việc: văn thư, cảnh vệ, liên lạc, cấp dưỡng...

Sau một thời gian ngắn dừng chân tại làng Xảo, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), ngày 29-5-1947, Bác đến xã Ðiềm Mặc, huyện Ðịnh Hóa (Thái Nguyên). Lán ở và làm việc của Bác dựng trên ngọn đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Ít lâu sau, Bác chuyển sang thôn Tỉn Keo, rồi thôn Khuôn Tát, xã Phú Ðình; lán của Bác kín đáo hơn, nằm khuất giữa cánh rừng nứa rậm rì, từ trên máy bay cũng như từ bốn phía chung quanh đều không trông thấy. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp... cũng dọn đến ở và làm việc gần Bác.

Sở dĩ Ðịnh Hóa được chọn làm "thủ đô xanh" - hay còn gọi là "thủ đô gió ngàn" - trong những ngày đầu kháng chiến, bởi vì trước hết đây là vùng núi non hiểm trở, quân Pháp khó sử dụng xe cơ giới đánh chiếm. Nhưng ta thì lại có thể sử dụng mạng đường mòn xuyên rừng và đường ngựa thồ chằng chịt để liên lạc với vùng Tây Bắc, trung du và đồng bằng nước ta, cũng như các cơ sở bí mật của Ðảng Cộng sản Trung Quốc ở miền Hoa Nam lúc bấy giờ còn nằm dưới ách thống trị của Tưởng Giới Thạch. Ðịnh Hóa không quá xa miền xuôi như vùng căn cứ Pác Bó, Cao Bằng, tiện cho việc kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến trong cả nước.

Ngay từ năm 1906, nhà yêu nước Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu trở về Ðịnh Hóa, định xây dựng nơi đây thành căn cứ chống Pháp, nhưng không thành, bởi vì mới chỉ có địa lợi, chứ lúc ấy thiên thời chưa xuất hiện, và nhân hòa cũng chưa rõ nét. Phải đến thập niên 1940, thì mới hội đủ cả ba yếu tố đó. Chúng ta còn nhớ, đến cuối tháng 8-1945, cách mạng mới thành công trong cả nước. Nhưng, riêng Ðịnh Hóa, thì sớm hơn nhiều. Rạng sáng 26-3-1945, Cứu quốc quân và tự vệ địa phương đã nổ súng đánh chiếm đồn lính khố xanh Chợ Chu. Rồi vào ngày 18-4-1945, 130 đại biểu đồng bào bảy dân tộc trong châu đã họp tại Bản Lác, bầu ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Ðịnh Hóa. Cán bộ và nhân dân Ðịnh Hóa kiên trung với cách mạng.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ thay đổi chỗ ở nhiều lần quanh vùng Phú Ðình (Ðịnh Hóa) và Tân Trào (Sơn Dương). Tuy thuộc hai tỉnh khác nhau, hai xã này rất gần nhau, nằm hai bên ngọn núi Hồng. Bác thường "ung dung yên ngựa trên đường suối reo" qua lại trên con đường ngựa thồ vượt đèo De, ngọn đèo dài khoảng bốn ki-lô-mét. Nơi đây có cánh rừng phách, một loại cây thân gỗ khá lớn, lá rực vàng lúc thu sang, đã đi vào thơ Tố Hữu: "Ve kêu rừng phách đổ vàng / Nhớ cô em gái hái măng một mình"...

Năm 1947, những dãy núi chung quanh thung lũng Chợ Chu còn nhiều khỉ vượn. Cán bộ miền xuôi, nhất là thanh niên Hà Nội quen "sống vui phố hè" giữa "Hàng Ðào ríu rít Hàng Ðường, Hàng Bạc, Hàng Gai", những ngày đầu mới lên Ðịnh Hóa, nghe "vượn hót, chim kêu suốt cả ngày", cảm thấy man mác một nỗi buồn nhớ thành phố, nhớ đồng bằng. Vẫn là tiếng "vượn hót, chim kêu" ấy thôi, nhưng Bác lại cảm thấy "hay".

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay...

Ðúng là cảnh vật được cảm nhận qua tâm trạng con người. Như Nguyễn Du miêu tả, qua tâm trạng của Thúy Kiều trong những năm lưu lạc ê chề, thì "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"! Là nhà cách mạng từng trải, được tôi luyện qua lao tù ngục thất, quen nằm gai nếm mật, Bác Hồ luôn lạc quan. Hơn nữa, vào năm 1947, lực lượng cứu nước đã đông đảo, hùng mạnh hơn nhiều so với năm 1941, khi Bác mới về nước, ở trong hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, Cao Bằng, "sáng ra bờ suối, tối vào hang". Trong bài thơ Chúc năm mới, Ðinh Hợi - 1947, Bác viết những lời hào sảng:

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông...

Bác vui vì thấy rõ:

Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng...
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông...

Chính vì tin chắc vào sức mạnh quật cường của cả dân tộc nhất tề đứng dậy "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Bác mới có thể sáng tác nên bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc với âm hưởng lạc quan như vậy. Một số vị trí thức, nhân sĩ trong Chính phủ kháng chiến, lúc bấy giờ tuổi còn khá trẻ, như luật sư Phan Anh, xin được họa bài thơ này của Bác. Một không khí tin tưởng bao trùm khắp các cơ quan trung ương. Cuộc sống núi rừng với chóe rượu cần, bát nước chè tươi, bắp ngô nếp nướng, và đôi khi có miếng thịt rừng quay, hóa ra cũng không đến nỗi buồn, mà còn có nét nào đó... "thật là hay"!

Hai câu cuối nói lên tình cảm thủy chung của Bác: Sau ngày kháng chiến thành công, Bác sẽ trở lại thăm chiến khu xưa.

Bài thơ của một nhà cách mạng hiện đại, thế mà lại toát lên cốt cách thanh cao của một nhà hiền triết phương Ðông cổ đại "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo hèn không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục". Các chi tiết đều hiện thực, trừ chi tiết hạc cũ, theo chúng tôi nghĩ, có lẽ là ước lệ, tượng trưng, bởi lẽ tại Ðịnh Hóa hầu như chưa ai thấy có chim hạc.

Từ xa xưa, ở phương Ðông, hoa mai và chim hạc vẫn là biểu tượng của sự thanh cao. Nguyễn Du chẳng đã từng nhắc tới chim hạc trong bài thơ Tự thán đó sao?

Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn,
Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri...

Tiên Ðiền tiên sinh tự trách mình bản tính trời sinh ra cứ dài thẳng như ống chân chim hạc, làm thế nào mà dễ dàng cắt ngắn đi được! Còn thân phận thì nhẹ tựa lông chim hồng mà tự mình chẳng biết! Xa xưa hơn nữa, từ trước công nguyên, Trang Tử từng triết lý ví von: "Chân vịt ngắn nhưng nối thêm vào không được; chân hạc dài nhưng cắt ngắn bớt chẳng xong!".

Có khác chi cốt cách bậc trí giả thanh cao, cương trực không thể nào bẻ uốn thành thói xu phụ, hám tiền...

Cả hai nhà thơ lớn Nguyễn Du và Hồ Chí Minh, hai con người xứ Nghệ, đều ưa vẻ thanh cao của chim hạc. Nhưng khi nhắc đến chim hạc, thơ Nguyễn Du có vị đắng. Còn thơ Hồ Chí Minh thì không. Bởi vì Hồ Chí Minh trước hết là một vị Anh hùng giải phóng dân tộc.

Ngành du lịch nước ta coi năm 2007 là Năm Du lịch Thái Nguyên, thăm "thủ đô gió ngàn". Ðó là một chủ trương đúng, nhiều ý nghĩa, nhất là đối với các thầy, cô giáo dạy sử và học sinh, sinh viên.

Có thể bạn quan tâm