60 năm điện ảnh cách mạng Nam Bộ

Có được thành quả đó phải kể đến những tên tuổi như: Khương Mễ, Mai Lộc, Lý Cương, Nguyễn Ðảnh, Phạm Học, Hồ Văn Tây, Vũ Ba, Tám Danh,... Họ là những người đầu tiên xây đắp ngôi nhà điện ảnh dân tộc-điện ảnh kháng chiến bưng biền Nam Bộ - một cái nôi của điện ảnh cách mạng Việt Nam.

Ðiện ảnh bưng biền chống thực dân Pháp

Năm 1947, Tổ Nhiếp-Ðiện ảnh Khu 8 được thành lập tại ấp Tân Hòa, xã Nhân Hòa Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Ðiện ảnh Khu 8 được coi là cái nôi của điện ảnh bưng biền Nam Bộ. Mới đầu chỉ có sáu người sau tăng lên 58 người, họ là những nghệ sĩ, chiến sĩ, tay vác máy, tay vác súng vượt mọi khó khăn gian khổ xông pha ra chiến trường.

Chỉ với 58 con người, họ đã tạo nên một nền điện ảnh kỳ lạ cho dù thiếu thốn về trang thiết bị, về địa hình hiểm trở, họ làm việc trong điều kiện hết sức khó khăn: tráng phim không có điện, nhân bản phim không dùng động cơ, la-bô là ghe thuyền, buồng tráng là guồng quay tay đặt trong hòm nước đá. Ở ngoài chiến trường làm sao có nước đá, họ lại phải băng qua những chặng đường vô cùng nguy hiểm, giả dạng người đi câu, bơi xuồng ra nhà dân cách lộ 4 khoảng hai cây số (tuyến đường từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, phía nam Ðồng Tháp Mười) rồi nhờ người ra chợ mua nước đá mang về. Muốn ướp thuốc lạnh suốt thời gian tráng phim kéo dài nửa giờ, anh em trong tổ đã chế tạo một thùng gỗ to hơn cái guồng trang phim rồi chèn nước đá chung quanh. Khi đậy nắp thùng gỗ lại, hơi lạnh làm nước thuốc hạ nhiệt độ rất nhanh. Nhiệt độ cao hay thấp bây giờ chỉ còn phụ thuộc vào lượng nước đá được sử dụng nhiều hay ít...

Rồi mẻ phim ra lò thành công tạo niềm hân hoan, phấn khởi tột độ, hơn cả sự mong đợi của các thành viên trong tổ. Một nồi khoai luộc được bày ra mừng công thắng lợi trong không khí đậm đà tình quân dân cá nước.

Những thước phim trực hình đầu tiên của điện ảnh Khu 8 ra đời vào năm 1948 ấy đã trở thành một ký ức không phai mờ trong tâm trí của những chiến sĩ điện ảnh cách mạng thế hệ đầu tiên. Nó đánh dấu một sự khởi đầu tốt đẹp, hứa hẹn sự phát triển không ngừng của các hoạt động điện ảnh sinh ra trong khói lửa chiến tranh vệ quốc, tồn tại do dân và vì dân.

Tổ Nhiếp-Ðiện ảnh Khu 8 xuất quân và đã ghi lại những thước phim chiến sự đầu tay "Trận Mộc Hóa". Ðây được coi là một bộ phim khá hoàn chỉnh, để quay được những thước phim đó, người quay phim chiến trường phải có một trái tim nóng và một cái đầu thép tỉnh táo.

Họ không có cách gì khác hữu hiệu để né tránh hòn tên, mũi đạn. Muốn ghi hình những gì giá trị nhất, họ không thể không lao vào nơi ác liệt nhất của cuộc chiến đấu. Ranh giới giữa cái sống và cái chết là rất mong manh, họ phải quên hết mọi thứ xung quanh để thực thi nhiệm vụ vì đây là hình ảnh một trận đánh lớn, tiêu biểu đầu tiên của chiến trường Nam Bộ.

Tháng 10-1951, Bộ Tư lệnh Nam Bộ sáp nhập điện ảnh ba khu 8, Khu 9 và Khu 7 làm một. Ngoài sự đóng góp của điện ảnh ba khu, bên cạnh đó còn có sự đóng góp điện ảnh Bình Thuận vào cuộc kháng chiến vinh quang. Riêng với Bình Thuận, những gì có được trong điện ảnh từ đào tạo, tiếp liệu, làm phim đến chiếu phim đều có sự hỗ trợ của điện ảnh Khu 8.

Ðiện ảnh kháng chiến giai đoạn này, thấy rõ vai trò quan trọng của lực lượng điện ảnh Nam Bộ trong đó nóng cốt vẫn là điện ảnh Khu 8. Nó không chỉ tạo dựng nên một trong những hoạt động điện ảnh đầu tiên trong cả nước mà còn bằng nhiều cách trực tiếp và gián tiếp, bổ sung và đào tạo lực lượng, kết hợp với điện ảnh Ðồi Cọ, Việt Bắc hình thành nên đội ngũ những nghệ sĩ - chiến sĩ điện ảnh thế hệ thứ nhất, với đầy tâm huyết và lửa nhiệt tình cách mạng.

Giai đoạn 1948-1954, đánh dấu một bước quan trọng của điện ảnh bưng biền qua các phim tiêu biểu như: Trường quân chính Khu 8 (1948), Lễ xuất quân Trung đoàn 115 (1948), chiến trận Mộc Hóa (1948), Trận La Ban (1948), Binh công xưởng Khu 8 (1949), Chiến dịch Trà Vinh-Cầu Kè (1950), Chiến dịch Bến Tre (1950), Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng (1950), Trường Thiếu sinh quân Khu 9 (1949), Trận Bầu Bàng (1950), Chiến dịch Bến Cát (1950), Trận Bến Súc (1950), Hết đời đế quốc (1951), Một năm Filatov (1952), Chiến thắng Tây Bắc (1952)...

Ðiện ảnh Nam Bộ chống Mỹ, cứu nước

Trong số 58 con người đã tham gia điện ảnh bưng biền chống Pháp, số cốt cán đã lên đường tập kết ra miền bắc sau Hiệp định Gèneve năm 1954. Ðảng và Nhà nước đã đánh giá cao đội ngũ những người làm điện ảnh này và đã bổ sung vào biên chế điện ảnh ở miền bắc, rồi lần lượt rút ra đi học chính quy, hoặc mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ.

Cùng với việc bảo tồn lực lượng điện ảnh tập kết ra, Ðảng và Nhà nước đã trù liệu việc xây dựng một lực lượng mới, trẻ, có trình độ để cùng cầm máy quay vào chiến trường miền nam đánh Mỹ. Từ năm 1962, khi mà con đường chiến lược vận tải quân sự 559 dọc Trường Sơn đã hình thành, lần lượt có những tổ làm phim được đưa vào chiến trường. Và lớp đi B đầu tiên năm 1962 chính là lớp "bưng biền" năm xưa, rồi tiếp bước theo là con em các vùng hậu phương miền bắc.

Trong những năm đầu chống Mỹ, cách làm phim ở chiến trường căn bản cũng giống hồi chống Pháp: quay phim 16mm, đen trắng, không có tiếng, tráng và in thủ công, không có điện (chỉ có một điều mới là lúc này có thể gửi phim ra miền bắc xử lý hoàn chỉnh. Những sản phẩm thời chống Mỹ cũng là phim thời sự tài liệu chiến đấu nóng hổi như cuộc chiến chống Pháp, nhưng đã có âm thanh và đã đi ra khắp năm châu thế giới).

Ðiện ảnh giải phóng đã ghi lại những hình ảnh nóng bỏng qua hàng loạt phim tiêu biểu như: Miền nam anh dũng (1964), Chiến thắng Bình Giã (1964), Vài hình ảnh về Ba Tri (1964), Ðồng Xoài rực lửa (1965), Mỹ nhất định thua-ta nhất định thắng (1965), Du kích Củ Chi (1966), Chiến thắng Tây Ninh (1967), Hạt lúa vành đai (1967),Ðại hội thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969), Ðội nữ pháo bình (1969), Ðường ra phía trước (1969), Trả tù binh Mỹ lần đầu tiên ở Việt Nam (1969), Ðịch lấn chiếm Phước Hòa (1966), Bình Thuận triệt phá giao thông địch (1966), Ðại hội những người chiến thắng (1969), Chiến thắng Dương Liễu-Ðèo Nhông (1965), Khúc ruột miền Trung (1965)... Ðó là những thành tựu nổi bật, đánh dấu sự phát triển không ngừng của điện ảnh cách mạng Nam Bộ trong suốt những năm tháng lịch sử của đất nước.

60 năm đã trôi qua, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lấy điện ảnh làm vũ khí chiến đấu, điện ảnh giải phóng, điện ảnh Quân giải phóng Nam Bộ đã biết phát huy truyền thống và những kinh nghiệm quý báu trong sáng tác nghệ thuận của Ðiện ảnh bưng biền Nam Bộ, Ðiện ảnh Ðồi Cọ-Việt Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp để hoàn thành nhiệm vụ, lập nhiều thành tích về nghệ thuật, đóng góp công lao cho chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Ðể có được thành quả đó, đã không ít người đã phải hy sinh trên chiến trường nhưng họ đã để lại cho thế hệ trẻ hôm nay một nền điện ảnh Nam Bộ có bề dày lịch sử, họ là những con người tiên phong cho điện ảnh Nam Bộ - điện ảnh cách mạng Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm