Nền giáo dục ban đầu của người Việt xuất hiện từ thời đồng thau với chữ nòng nọc. Chữ ấy ngày nay còn được lưu giữ ở các thầy cúng người Mường. Văn hóa Hán, Ấn, chữ Hán và chữ xan-crit (Ấn Ðộ) được đưa vào nước ta từ đầu Công nguyên qua đạo Phật. Trường dạy Nho giáo bắt đầu từ Nhâm Diên, đặc biệt là Sĩ Nhiếp được mệnh danh là Nam Giao học tổ. Người truyền bá đạo Phật từ Ấn Ðộ đến là Ksudra. Hai đạo đều bắt đầu mở học viện, thiền viện ở Luy Lâu. Ở Hoa Lư, đã tìm thấy những cột chữ xan-crit.
Nền giáo dục của dân tộc Ðại Việt bắt đầu từ thời Lý. Chiếu dời đô do Lý Công Uẩn viết năm 1010 bằng chữ Hán; ông được cha là sư Vạn Hạnh dạy, chứng tỏ chữ Hán đã được sử dụng từ thời Bắc thuộc, năm 111 trước Công nguyên. Hai người đỗ Mậu Tài, Hiếu Liêm là Lý Cầm và Lý Tiến.
Sĩ Nhiếp dạy Nho giáo phải thích nghi với phong tục, tập quán của bản địa. Người học không nhiều vì người Hán chỉ với tới huyện lỵ của người Việt, không tới các tộc thiểu số. Công xã nông thôn vẫn giữ được quyền tự quản, chỉ nộp thuế và đi phu.
Triều Lý lập Văn Miếu và Quốc Tử Giám từ thời Thánh Tông và Nhân Tông. Người đỗ đầu khoa Minh Kinh bác học là Lê Văn Thịnh, thầy dạy Nhân Tông.
Thời Lý, Trần (1009 - 1400) truyền bá cả ba dòng văn hóa Phật, Nho, Lão; được coi là cùng một gốc (con người). Văn hóa cung đình gần gũi với văn hóa dân gian. Nền văn hóa thời này nổi bật tính dân tộc và tính thực tiễn. Bên cạnh nền chính trị thân dân, nền kinh tế phát triển, nền văn hóa và nghệ thuật được mở mang, để lại cho chúng ta nhiều di sản quý báu, trước hết nó đào tạo nhân tài giữ nước và cứu nước.
Nhân tài thời Lý khá đông như Thái hậu Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Ðạo Thành, Lê Văn Thịnh, Tô Hiến Thành... Thời Trần mở ra nền văn hóa Ðông Á với các danh nhân như các vua Trần Cảnh, Trần Hoảng, Trần Khâm, Trần Thuyên, Mạc Ðĩnh Chi, Lý Ðạo Tái, Trần Trung, Trần Hưng Ðạo, Chu Văn An, Trần Nguyên Ðán. Cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi được giáo dục ở thời Trần.
Lý, Trần xây dựng và mở mang nền văn hóa, giáo dục của dân tộc ta. Ðấy là một thời oanh liệt. Hồ Quý Ly muốn cải cách kinh tế và văn hóa khi thời Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông đã suy thoái. Ông không thành công vì bất chấp lòng người. Lê Lợi dùng Nguyễn Trãi và các hào kiệt do thời Trần đào tạo mà đánh thắng quân Minh. Lê Thánh Tông phục hưng đất nước, vì độc tôn Nho giáo, mở đầu nền giáo dục kinh viện khoa cử, dạy người làm quan mà mở đường cho sự suy thoái.
Nguyễn Huệ muốn đất nước cất cánh, lấy chữ nôm làm quốc ngữ, dựa vào Nguyễn Thiếp cải cách giáo dục. Tiếc rằng, thời Tây Sơn ngắn ngủi. Nhà Nguyễn, tiêu biểu là vua Tự Ðức, yếu đuối, sùng Nho, giáo dục khoa cử.
Nền giáo dục thời Pháp là ngu dân, mưu toan đồng hóa văn hóa, tuy cũng góp phần mở mang dân trí.
Thời hiện đại thế kỷ 20, nền văn hóa, giáo dục cách mạng phát triển rực rỡ, tiếp nối thời Lý, Trần. Một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng phát triển mạnh mẽ đi vào quần chúng nhân dân. Nó tiếp nối truyền thống và phát triển. Thành tựu 60 năm của văn hóa, giáo dục đi cùng với chiến tranh cách mạng giải phóng và xây dựng đất nước trong thời đại mới làm nên sức sống tinh thần to lớn của người Việt Nam với cộng đồng 54 dân tộc.
Nền giáo dục ấy mang đậm bản sắc dân tộc và tính thực tiễn song có pha trộn chủ nghĩa giáo điều, xa rời thực tiễn, dạy sách của nước ngoài và sử dụng các phương pháp của họ. Nhiều cuộc cải cách không thành công. Nay phải đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển, thích nghi với thời đại tin học kinh tế tri thức. Nền giáo dục mới phải là nền giáo dục dân tộc, thực tiễn, sáng tạo, mở, cập nhật hóa tri thức.
Mục đích của nền giáo dục mới là tri thức hóa toàn dân, xã hội hóa giáo dục, chuẩn bị cho nền lao động từ cơ bắp chuyển lên lao động trí tuệ, con người làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân. Khẩu hiệu hành động của chúng tôi là Tất cả do con người và vì con người. Mục đích thực hiện của giáo dục là đào tạo nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Muốn cải cách giáo dục hướng tới mục đích nói trên cần phải có: Ðội ngũ người dạy có thực học, đầu óc cải cách và phương pháp giáo dục mới - dân chủ, đối thoại, khuyến khích độc lập tư duy.
Bảo đảm cơ sở hạ tầng hiện đại của nền giáo dục tin học hóa. Thay đổi chế độ tiền lương cho người trồng người. Nền giáo dục quyết định thành bại, thịnh suy của đất nước. Cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của con người. Người mình vốn có truyền thống tôn sư, trọng đạo và coi hiền tài là nguyên khí quốc gia.