Trong ngôi nhà khang trang nơi con hẻm nhỏ trên đường Trần Quý Cáp, Trung tá, Anh hùng LLVT Hồ Phúc Ngôn dường như trẻ hơn nhiều so với tuổi 87. Với giọng nói hào sảng, ông nhắc từng chuyện, từng việc kể từ ngày theo Việt Minh đi làm cách mạng. Tuổi thơ ông là những tháng ngày đói khổ, cực nhọc của người dân Việt sống dưới sự hà khắc của chế độ thực dân phong kiến. Chưa đầy 15 tuổi, ông trốn nhà theo Việt Minh, rồi trở thành một trong những người tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở quận Nhì, Đà Nẵng. Ông trầm ngâm: “Quê tôi ở thôn Hồng Phước, xã Hòa Khánh thuộc huyện Hòa Vang, sau là khu phố Hòa Khánh, quận Nhì, Đà Nẵng thời chống Mỹ, cứu nước nay là phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu. Hồi trước, Hồng Phước là cồn cát trắng nằm lọt thỏm giữa bàu sậy, cây cối mọc um tùm, chung quanh là đầm lầy với nhiều bụi cây có gai. Địa thế vốn hiểm trở, đi lại khó khăn, nên Hồng Phước sớm được Việt Minh chọn làm nơi trú ẩn, che giấu lực lượng. Những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Hồng Phước là điểm tập kết, chuẩn bị mọi điều kiện trước khi kéo về cướp chính quyền ở quận Nhì”.
Cuối năm 1954, ông Hồ Phúc Ngôn (tên thật là Trần Lượng) tập kết ra bắc, đến đầu năm 1960 lại chân đất vượt Trường Sơn, trở về quê chiến đấu. “Căn cứ B1 Hồng Phước chính thức ra đời từ thời điểm ta chuẩn bị lực lượng để đồng khởi 1964”, ông Ngôn kể. Cả thôn lúc ấy có 64 nóc nhà, với 46 căn hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, du kích, bộ đội. Các mẹ, các chị là những giao liên khôn khéo, tài tình. Tài liệu, thư từ thường được giấu trong bó rau, mớ củ quả các chị gánh về Đà Nẵng bán dạo, rồi chuyển tới những gia đình cơ sở bí mật trong nội thành với rất nhiều phương thức, nhiều giao liên luân phiên… mà chưa từng bị lộ.
Đến những năm 1964 - 1965, Mỹ - ngụy bắt đầu mở rộng khu quân sự Đà Nẵng ra phía bắc. Chung quanh Hồng Phước, kẻ thù dựng lên hàng loạt đồn bốt. Phía tây bắc là hệ thống chốt phòng thủ liên hợp; phía đông là căn cứ hậu cần Bàu Mạc và sân bay Xuân Thiều; phía tây là tiểu đoàn pháo binh của Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ; phía tây nam là khu vực đóng quân của Liên đoàn 11 Biệt động quân ngụy; phía đông nam là tiểu đoàn công binh Mỹ; ngay sát phía nam là khu phố Hòa Khánh dày đặc cảnh sát, bảo an, dân vệ, mật vụ, ác ôn… Ngay sát nách địch, nhưng tất cả những gia đình cơ sở cách mạng ta xây dựng từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, vẫn kiên trung bám trụ, một lòng trung thành với Đảng, với Bác Hồ.
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị nhớ lại: “Tôi về đây hoạt động từ cuối năm 1973. Mỗi tối đứng trên núi nhìn về phía Hồng Phước, thấy ánh đèn được các chị, các má treo trên am thờ ngoài ngõ, là biết an toàn, bộ đội, cán bộ có thể về ở lại, chờ hôm sau vào nội thành hoặc nghỉ ngơi trước khi vào trận đánh mới. Người đầu tiên nghĩ ra việc dùng ngọn đèn dầu làm ám hiệu là bà Phạm Thị Dĩ và ông Dương Chương, một trong những cơ sở cách mạng kiên trung nhất. Hồi đó, có quy định thế này: Nếu không có đèn hoặc treo đèn trong nhà và đóng cửa lại là có địch đang đi rình mò, lùng sục, bố ráp. Đèn treo ở am thờ ngoài ngõ, cửa không đóng hoặc chỉ khép hờ là tín hiệu không có địch, quân ta có thể xuống. Không chỉ nuôi giấu cán bộ, người dân Hồng Phước còn làm nhiều việc khác cho cách mạng như làm giao liên, vận chuyển vũ khí, cung cấp thuốc men, lương thực, thực phẩm... Bà con B1 Hồng Phước quý cán bộ trên núi lắm. Nhiều khi, con em họ chỉ ăn cơm với muối, nhưng cán bộ từ trên núi xuống bao giờ cũng được ăn cá, ăn rau, ăn thịt.
Ông Phan Văn Tải (78 tuổi, trú Thanh Vinh, Hòa Khánh Bắc, Liên Chiểu), nguyên là Quận ủy viên, Quận đội phó quận Nhì từ năm 1967, người gắn bó gần như cả cuộc đời với Hồng Phước chia sẻ: Căn cứ B1 Hồng Phước cũng là căn cứ lõm như K20 ở Ngũ Hành Sơn, nhưng quy mô nhỏ hơn. Điều đặc biệt là, Hồng Phước nằm ngay sát hàng loạt căn cứ đóng quân của địch, thậm chí có những căn hầm bí mật được đào ngay cạnh bờ rào đồn địch mà chúng không hề hay biết. Trong hơn 20 năm kháng chiến, khu căn cứ này chưa từng bị lộ, chưa từng có ai bị bắt ở đây, mà cũng chưa có người dân nào vì sợ mà khai báo. Chính lòng dân kiên trung đã chở che cho hàng chục nghìn lượt cán bộ, bộ đội, du kích vào ra, trú ẩn, hoạt động. Cả thôn có đến 46 căn hầm bí mật, cái thì dưới gầm giường, cái dưới bụi tre, bụi chuối, trên cồn cát… Có gia đình như bà Phạm Thị Miên trong vườn đào đến bảy hầm bí mật, lúc chuẩn bị đánh vào Đà Nẵng, bà nuôi giấu gần 20 cán bộ, đặc công… “Cũng nhờ hoạt động ở Hồng Phước mà tui quen được bả, rồi tổ chức cưới bả cho tui”, ông Phan Văn Tải chỉ vào người vợ già, đùa vui.
Trong số hàng chục người mẹ, người chị kiên trung, suốt những năm tháng ác liệt đã đào hầm nuôi giấu cán bộ, nay chỉ còn duy nhất bà Hà Thị Mau. Ở tuổi ngoài 80, trí nhớ không còn minh mẫn, bà chỉ tay về phía những nhà máy, công xưởng trong Khu công nghiệp Hòa Khánh mà rằng: “Hồng Phước hồi trước ở đó, nay là khu công nghiệp, chỉ còn một góc bàu tràm thôi con”. Chậm rãi, bà kể: Quê ở Hòa Liên, bà làm dâu Hồng Phước từ năm 1954. Khi lực lượng ta bắt đầu lớn mạnh, vợ chồng bà được cấp trên yêu cầu làm hầm bí mật, chính ông Phan Văn Tải dẫn quân về đào.
Nhiệm vụ của gia đình bà là đậy miệng hầm, ngụy trang để địch không phát hiện, lo việc cơm nước, thuốc men. Ban ngày thì giả vờ đi chợ Hòa Khánh, xuống quận Nhì để đưa tin, nắm tình hình… rồi về báo lại cho các anh. Hầm bí mật thì nhiều kiểu lắm, có kiểu hầm nổi hai lớp, lớp trên giả làm hầm tránh bom đạn cho mình, lớp dưới là hầm bí mật, có loại hầm chìm trong cát, được chèn cây, bao cát cho khỏi lún sụt, có loại đào sâu dưới bụi tre, bụi chuối… “Lớp người cùng đào hầm, chuyển thư, nắm tình hình, đưa vũ khí vào thành cùng bà, như các đồng chí Nguyễn Thị Liên, Mai Thị Bộ, Lê Thị Xí, Phạm Thị Miên, Lê Thị Cảnh, Phạm Thị Dĩ… nay không còn nữa, nhưng chiến công của họ vẫn được lớp lớp cháu con ghi nhớ”, bà Hà Thị Mau bùi ngùi.
Từ căn cứ bàn đạp B1 Hồng Phước, hàng chục nghìn lượt cán bộ, bộ đội, du kích được nuôi giấu, chở che để hoạt động, đánh địch. Từ đây, hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, hàng trăm tấn lương thực, hàng hóa, hàng nghìn công văn giấy tờ, tài liệu được bảo vệ, vận chuyển an toàn. Cũng từ căn cứ bàn đạp này, lực lượng của ta đã tiếp cận, xây dựng nhiều cơ sở, căn cứ trong nội thành Đà Nẵng, đưa lực lượng, vũ khí vào thành phố, quyết định các kế hoạch, triển khai nhiều trận chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, Hồng Phước nhiều lần bị địch càn quét, cày ủi, vây ráp, đốt phá, bắt bớ, giam cầm, nhưng người dân Hồng Phước vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với cách mạng, kiên quyết bảo vệ an toàn cho căn cứ, cho cán bộ. 23 người dân anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, hàng chục người bị bắt, bị tra tấn, tù đày, thế mà không có người dân Hồng Phước nào khai báo, không có người nào đi theo địch, phản bội cách mạng.
Chiến tranh đã lùi xa, Hồng Phước hôm nay không còn là vùng đầm lầy, cồn cát. Hòa bình, người dân Hồng Phước lại trở về để trồng rau, nuôi cá, làm lúa. Rồi thành phố Đà Nẵng được đầu tư, lớn mạnh, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, thành đô thị loại I. Vì quê hương, người dân Hồng Phước lại tham gia cuộc cách mạng mới, di dời giải tỏa, nhường đất xây dựng khu công nghiệp. Cả một vùng rừng thiêng nước độc, chỉ sau vài năm đã biến đổi hoàn toàn, trở thành khu công nghiệp với hàng trăm nhà máy, công xưởng, khu sản xuất, hàng hóa làm ra nhiều, trị giá hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Anh Tô Ngọc Quang, Phó Chủ tịch UBND phường Hòa Khánh Bắc cho biết, với vai trò là trung tâm của quận, Đảng bộ phường Hòa Khánh Bắc luôn chú trọng phát triển toàn diện, trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ được đặc biệt chú trọng. Nhiều con em của các gia đình cách mạng ở B1 Hồng Phước nay đang giữ những cương vị chủ chốt, quan trọng của quận, của nhiều phường trên địa bàn. Trong 5 năm qua, Đảng bộ phường trở thành Đảng bộ trong sạch, vững mạnh tiêu biểu của quận, hàng loạt chỉ tiêu kinh tế, xã hội luôn được Đảng bộ, nhân dân Hòa Khánh Bắc đồng lòng thực hiện thắng lợi.
Điều đáng tiếc là cho đến nay, căn cứ B1 Hồng Phước gần như không còn lưu giữ được hiện vật gì. Thôn xóm xưa, nay đã được san ủi, xây dựng khu công nghiệp, nhưng những chiến công, những hy sinh thầm lặng của người dân, của cán bộ, chiến sĩ, du kích Hồng Phước mãi mãi được lịch sử ghi nhận. Gần đây, Quận ủy, UBND quận Liên Chiểu đã đề nghị thành phố Đà Nẵng cho xây dựng Đài bia và nhà truyền thống di tích lịch sử cách mạng B1 Hồng Phước - quận Nhì, Đà Nẵng ngay trên khu vực bàu tràm xưa. Đất nước đang hướng về kỷ niệm 41 năm Ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, đây cũng là dịp để người dân Hồng Phước xưa, Đảng bộ và nhân dân Hòa Khánh hôm nay tri ân những người đã hy sinh máu xương cho độc lập tự do của dân tộc. Và với lớp trẻ hôm nay, mảnh đất Hồng Phước luôn xứng danh anh hùng, luôn mang lại niềm tự hào và hạnh phúc tươi sáng cho cháu con.