Xúc xích Đức của người Việt

Hà Nội một chiều đông, trong một quán nhậu bình dân có hai người đàn ông trầm ngâm. Người đàn ông Việt Nam chừng 50 tuổi là Mai Huy Tân, cán bộ của một công ty sản xuất phụ tùng ôtô của Đức tại Việt Nam, từng là nghiên cứu sinh và tiến sĩ toán - kinh tế tại Đại học tổng hợp Martin - Luther ở Haller (Đức). Vị khách nước ngoài là Michael Campioni, chủ một doanh nghiệp sản xuất cửa kính - nhựa ở Đức và từng là nhân viên Sứ quán CHDC Đức tại Hà Nội. Câu chuyện hôm ấy của họ không vui: chuyến khảo sát thị trường cho mặt hàng họ dự định sản xuất cho kết quả xấu, cuộc thù tạc này để “tiễn đưa” dự định làm ăn đó. Ông Tân động viên bạn: “Người Việt Nam không có cửa nhựa thì có cửa nhôm, cửa gỗ. Và nếu năm nay chưa có cửa đẹp, năm sau có cũng chẳng sao. Chỉ có ăn uống như chúng ta thế này ai cũng muốn và lúc nào cũng cần”. Người bạn Đức hỏi lại: “Hay ta đem thức ăn đến bán? Vậy tôi có thể bán thức ăn gì cho người Việt Nam? Quê tôi chỉ có món xúc xích”. Thật thú vị, quê hương của Michael là vùng Thueringen, nơi có món xúc xích nổi tiếng. Cả hai cùng bật ra: xúc xích vùng Thueringen bán ở Việt Nam? Tại sao không nhỉ?

Dây chuyền chế biến
xúc xích Đức Việt.

Giám đốc Mai Huy Tân nói: “Việt Nam mở cửa và cũng sẽ trở thành một xã hội công nghiệp. Thức ăn này có dinh dưỡng, hương vị và giá cả cũng rất hợp với người Việt. Như vậy xúc xích Đức hoàn toàn có thể bán ở Việt Nam”. Quan điểm của ông là sản xuất ở Việt Nam; nhập toàn bộ công nghệ, máy móc, nguyên liệu của Đức, trừ thịt. Ông cho rằng đây là điểm mấu chốt quyết định sự có mặt của thương hiệu xúc xích Đức Việt tại Việt Nam.

“Qua giây phút “định mệnh”, tôi bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc về dự định này”- ông Tân kể. Thế là người bạn Đức trở về vùng quê thơm lừng hương xúc xích để khảo sát, tìm hiểu và anh bạn Việt cũng đôn đáo tìm hiểu, khảo sát để đưa xúc xích Đức đến Việt Nam.

Một nhà máy nhỏ mang tên Công ty TNHH Đức Việt ra đời, tọa lạc trên 300m2 của phường Thanh Xuân, Đống Đa (nay là Q.Thanh Xuân, Hà Nội), thuê từ nhà kho một doanh nghiệp nhà nước. Nhà máy nhỏ nhưng sạch, gọn và đáp ứng tất cả tiêu chuẩn công nghệ của xúc xích Thueringen. Các chuyên gia máy và công nghệ được mời từ Đức sang để hướng dẫn và tổ chức sản xuất. Vấn đề là thị trường. Mục tiêu số một: bán hàng cho những người đã từng ăn xúc xích Đức. Đó là người Đức (và người phương Tây khác) ở Hà Nội và người Hà Nội từng ở Đức. Con số này khoảng trên 2 vạn. Mục tiêu tiếp theo là khách hàng trung lưu trở lên, khách hàng đã và sẽ ăn đồ Tây. Cách tiếp cận: thông qua các tổ chức, cộng đồng người nước ngoài ở Hà Nội, các khách sạn, nhà hàng, quán ăn... Ngày 7-9-2000, chiếc xúc xích Thueringen “made in Việt Nam” đầu tiên của Đức Việt ra lò. 200 thực khách là người Đức “xịn” và những người Việt Nam sành ăn món Đức nhất được mời đến thưởng thức. Tất cả đều chung một lời khen: đạt tiêu chuẩn Đức!

Nhưng chỉ mấy tháng sau nhà máy đóng cửa. Hàng Đức Việt không bán được vì tại những nhà hàng, khách sạn quốc tế vẫn có xúc xích Thueringen, nhập khẩu từ Đức và bán với giá 3 USD/chiếc. Ngoài quán bia, siêu thị vẫn có xúc xích của các nhà sản xuất nội. Hàng Đức Việt chỉ bằng 1/6 giá nhập ngoại nhưng không bán được nhiều cho Tây vì lượng khách này rất ít, khách Việt thấy giá xúc xích Đức Việt cao hơn loại khác nên từ chối. Chất lượng hàng đã tốt, quản lý doanh nghiệp ổn, nhưng vì sản xuất cầm chừng, thu không đủ chi nên Đức Việt tạm ngừng hoạt động. Rà soát lại toàn bộ các khâu, vấn đề được phát hiện là khâu tiếp thị.

Chiến lược tiếp thị được thay đổi cơ bản: khách hàng số một là người Việt Nam. Thương hiệu xúc xích Đức Việt được quảng bá trên các phương tiện thông tin; từ vài sản phẩm ban đầu, Đức Việt mở rộng thêm hàng chục sản phẩm khác đều có hương vị, công nghệ “họ hàng” với xúc xích. Giám đốc Mai Huy Tân tìm một phó giám đốc phụ trách tiếp thị, chiến lược tuyển dụng nhân sự, đầu tư tài chính tương ứng cũng khởi động. Tại các siêu thị, nhà hàng, quán bia luôn có từng đoàn tiếp thị viên của Đức Việt mặc đồng phục gắn thẻ, đeo găng tay, tạp dề, mũ vải bên những xe đẩy có lò nướng trực tiếp những miếng xúc xích Thueringen, hong khói, vườn bia, salami, thăn lợn hong khói... Sau một năm, doanh thu của công ty tăng 100%, dây chuyền phát huy hết công suất. Những năm sau đó tốc độ tăng trưởng này vẫn được duy trì. Đến nay, một lò mổ công suất 200 con heo/ngày với công nghệ, dây chuyền cũng 100% của Đức cho sản phẩm thịt tươi đạt độ ngon, sạch đã được Đức Việt vận hành. Đức Việt đang từng bước vươn tới mô hình một tập đoàn nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ thực phẩm sạch quy mô, khoa học.

Có thể bạn quan tâm