Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, ước tính khối lượng gạo xuất khẩu trong tháng 10-2018 đạt 264,5 nghìn tấn, kim ngạch 135,56 triệu USD; so với cùng kỳ năm 2017 tăng 22,96% về lượng và 31,8% về giá trị. Lũy kế
10 tháng đầu năm 2018, ước khối lượng gạo xuất khẩu đạt 5,15 triệu tấn với kim ngạch 2,6 tỷ USD. So với cùng kỳ tăng 6,62% về lượng và tăng 21,49% về kim ngạch. Ðáng chú ý, lần đầu giá gạo Việt Nam vượt qua Thái-lan, với mức bình quân hơn 500 USD/tấn, tăng khoảng 15%. Năm 2016, Việt Nam xuất khẩu 4,8 triệu tấn, tương đương 2,1 tỷ USD.
Năm 2017, sản lượng và giá trị xuất khẩu gạo lần lượt là 5,8 triệu tấn và 2,6 triệu USD. Năm 2018, mục tiêu xuất khẩu gạo đạt khoảng 6,5 triệu tấn…
Kết quả tích cực trong việc tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu không chỉ nhờ nhu cầu, giá gạo thế giới tăng, mà còn do Việt Nam đang chuyển mạnh theo hướng sản xuất và xuất khẩu gạo với hơn 80% là nhóm gạo có chất lượng cao và gạo đặc sản (gạo nếp, tám thơm, gạo jasmine).
Thị trường xuất khẩu gạo thế giới thời gian gần đây có xu hướng ưu tiên thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế các hợp đồng thương mại và coi trọng chất lượng. Ðồng thời, không ít hàng rào phi thuế quan đã xuất hiện, ngày càng đa dạng, ngặt nghèo hơn và mỗi thị trường có những tiêu chí riêng. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu gạo hàng đầu của Việt Nam cũng đã duy trì chế độ nhập khẩu chặt chẽ thông qua hạn ngạch và kiểm tra an toàn thực phẩm nghiêm ngặt (từ 1-4-2018, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), đã yêu cầu về chất lượng, tem nhãn và truy xuất nguồn gốc đối với các mặt hàng nông sản nhập khẩu).
Thách thức lớn đối với DN xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là do hệ thống pháp luật của không ít quốc gia đặt ra rất nhiều quy định chặt chẽ đối với hàng nhập khẩu, cả cấp liên bang và mỗi tiểu bang với những quy định, luật định khác nhau, tiêu chuẩn mới, phức tạp về chất lượng, an toàn thực phẩm, nguồn gốc sản phẩm, đặc biệt là đối với các sản phẩm nông - lâm - thủy sản. Trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là nhỏ và vừa, thường ít kinh nghiệm đối phó các vụ kiện thương mại và rào cản kỹ thuật quốc tế. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tìm hiểu và cập nhật thông tin để kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất cũng như cải tiến và khắc phục thiếu sót, đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị cho hàng hóa xuất khẩu, cũng như định hướng thị trường trọng điểm một cách cụ thể hơn.
Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng cần phối hợp để xây dựng chuỗi cung ứng sản xuất hàng xuất khẩu, mang lại nhiều giá trị gia tăng cho hàng hóa Việt Nam; đồng thời, tăng cường liên kết, phối hợp, hợp tác với các doanh nghiệp bản địa để có thể nâng cao giá trị cho hàng hóa cũng như đáp ứng được các "hàng rào" tiêu chuẩn kỹ thuật.
Hiện, cả nước có tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch bình quân khoảng 20% đến 25%, cao hơn tổn thất sau thu hoạch bình quân trên thế giới là 15% đến 20%; riêng thất thoát sau thu hoạch hơn 2 triệu tấn thóc/năm (tổn thất 14%/năm tương đương khoảng 3.000 tỷ đồng); chăn nuôi, cây ăn quả tổn thất từ 10% đến 25%, rau củ tổn thất 30%, đánh bắt thủy sản khoảng 30%. Công nghệ chế biến nông sản lạc hậu hoặc chỉ tạo giá trị gia tăng rất thấp so với các nước trong khu vực. Bởi vậy, cùng với đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, cần chú ý đầu tư phát triển hạ tầng logistics nông nghiệp; hiện đại hóa các thiết bị và các công nghệ thu hoạch, bảo quản và chế biến sau thu hoạch; tăng cường đào tạo và mở rộng cơ hội cho người nông dân tiếp cận thuận lợi các kỹ thuật giảm tổn thất sau thu hoạch. Chủ động bảo đảm an ninh lương thực; kịp thời nhận diện nhu cầu tiêu dùng gạo chất lượng cao, an toàn cho sức khỏe con người và thích ứng hiệu quả với xu hướng phương thức kinh doanh mới của thị trường, triển khai tốt Nghị định 107/2018/NÐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo có hiệu lực từ ngày 1-10-2018, làm được như thế, chúng ta có quyền kỳ vọng đột phá trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu gạo.