Phát triển và xây dựng cơ sở hạ tầng số quốc gia đồng bộ, hiện đại phục vụ Chính phủ số là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ quan điểm và nhấn mạnh về tính thiết yếu và bắt buộc của hạ tầng số. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã xác định rõ phát triển hạ tầng số nhằm “sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng…”.
Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 đã đưa ra các nhiệm vụ cụ thể như phát triển hạ tầng số, nền tảng số. Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tiếp tục nhấn mạnh quan điểm: Hạ tầng số đi trước một bước, phát triển với tốc độ nhanh, theo hướng Việt Nam làm chủ công nghệ lõi.
Theo Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số, mặc dù Chương trình Chuyển đổi số quốc gia bắt đầu từ năm 2020 nhưng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 cho nên đến năm 2022 mới thật sự được coi là thời điểm bùng nổ để xây dựng, phát triển hạ tầng số. Trong sáu tháng đầu năm, tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định đạt 71,79 Mbps (tăng 32,7% so với cùng kỳ năm 2021); tốc độ truy cập mạng băng rộng di động đạt 35,29 Mbps (tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2021). Các doanh nghiệp viễn thông di động đã triển khai phủ sóng được 477 trong tổng số 832 thôn, xóm “lõm sóng” viễn thông. Bàn giao cho các địa phương 457.249 máy tính trong chương trình “Sóng và máy tính cho em”...
Người dân làm thủ tục hành chính tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh Đăng Khoa) |
Bên cạnh những ưu điểm về phát triển hạ tầng số thì vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần khắc phục. Tốc độ mạng băng rộng cố định, di động ở Việt Nam vẫn ở mức trung bình khá của thế giới và khu vực, chưa tạo ra được đột phá về hạ tầng phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Theo đánh giá thống kê của Ookla Speedtest thì đến ngày 1/9/2022, tốc độ mạng cố định của Việt Nam đứng thứ 45 trong số 182 quốc gia và tốc độ mạng di động đứng thứ 47 trong số 140 quốc gia. Việc xóa vùng “lõm sóng” viễn thông và cung cấp máy tính trong chương trình “Sóng và máy tính cho em” chưa hoàn thành.
Chương trình phủ sóng điểm lõm mới được hơn một nửa chặng đường cũng như con số máy tính trao đến cho các học sinh vẫn là nhỏ. Việc phát triển các nền tảng chủ lực cho hạ tầng số mới hình thành, bước đầu triển khai cho nên chưa có được nhiều hiệu quả. Các nền tảng, công nghệ đang là trọng điểm phát triển toàn cầu dù đã triển khai trong nước nhưng vẫn mờ nhạt, chưa tạo ra điểm sáng cho hạ tầng số. Thực tế cho thấy, với hai mục tiêu trọng tâm năm 2022 của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số chưa hoàn thành, đó là tỷ lệ dân số có điện thoại thông minh đạt 85% và tỷ lệ hộ gia đình có đường internet cáp quang băng rộng đạt 75%...
Tại tỉnh Bắc Ninh, phát triển hạ tầng số hướng tới chính quyền số, đô thị thông minh được ưu tiên hàng đầu. Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bắc Ninh cho biết, tỉnh đã tập trung xây dựng chính quyền số, hướng tới đô thị thông minh theo quan điểm tập trung, ứng dụng dùng chung để bảo đảm khả năng tích hợp, chia sẻ, quản lý và vận hành hiệu quả.
Theo đó, tỉnh đã xây dựng hạ tầng số trên nền tảng dữ liệu và bảo đảm kết nối, an toàn...; phát triển hạ tầng mạng trong kết nối cho các cơ quan và người dân; bảo đảm năng lực tính toán, xử lý, lưu trữ, bảo mật của Trung tâm dữ liệu của tỉnh; mở rộng các nguồn dữ liệu thời gian thực hữu ích cho hoạt động quản lý của chính quyền phục vụ chính quyền điện tử. Việc xây dựng chính quyền số, hướng tới xây dựng đô thị thông minh của tỉnh Bắc Ninh đã được xác định rất cụ thể, bằng việc xây dựng hạ tầng số và xác định hạ tầng số cần đi trước.
Thứ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Huy Dũng cho biết: Hạ tầng số phục vụ Chính phủ số là quan trọng trong Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông từ Trung ương đến địa phương. Các cấu phần của hạ tầng số phục vụ Chính phủ số liên quan có móc nối qua lại với nhau, việc kết nối liên thông phải đi cùng và chia sẻ dữ liệu được bảo đảm bằng quy định của pháp luật.
Xây dựng hạ tầng số cần được làm đồng bộ, có sự chung tay của các ngành cũng như doanh nghiệp và sự ủng hộ của người dân. Bên cạnh đó, cần xây dựng khung pháp lý cho hạ tầng số. Ngoài ra, việc xây dựng hạ tầng số cần phải được nâng cao nhận thức và ưu tiên đầu tư, coi đây là các nhiệm vụ hàng đầu trong chuyển đổi số.