Sau khi miền nam được giải phóng, đất nước chuyển sang trang sử mới: hòa bình, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Lực lượng nhà văn trong Quân đội không còn đông như thời chiến tranh; nhiều người lần lượt chuyển ra dân sự hoặc nghỉ chính sách. Thế hệ nhà văn chống đế quốc Mỹ tính đến thời điểm này còn mang quân phục hầu như không còn ai. Trong Quân đội hiện nay, chỉ còn lại lực lượng cầm bút xuất hiện sau năm 1975 với độ tuổi chủ yếu thuộc thế hệ 7X, 8X; những nhà văn 5X, 6X mang áo lính chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
Trong sáng tạo văn chương, tuổi đời không quyết định thành công của tác phẩm, tài năng và vốn sống mới là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng như một lẽ tự nhiên, khi nhìn nhận đánh giá một giai đoạn văn học nào đó người ta vẫn chia tác giả theo thế hệ. Đội ngũ nhà văn Quân đội xuất hiện sau năm 1975 chủ yếu là các nhà văn sinh ra và lớn lên trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước và những người cầm bút trẻ hơn thuộc các thế hệ sau đó. Điểm danh, ta thấy lớp “đàn anh” gồm các nhà văn, nhà thơ như Ngô Vĩnh Bình, Trần Anh Thái, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Bình Phương, Mai Nam Thắng, Nguyễn Quốc Trung, Bùi Thanh Minh, Hà Đức Hạnh, Phạm Thanh Khương, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Tiến Hải, Tô Nhuần, Hoàng Đức Nhuận,...; phần đông cũng đã hay sắp về hưu, có người đã mất. Lớp “đàn em” là những nhà văn như Nguyễn Đình Tú, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Phùng Văn Khai, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Mạnh Hùng, Hoàng Đăng Khoa, Đoàn Văn Mật, Phạm Vân Anh,… Một số cây bút khác chưa phải hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhưng cũng đã có tác phẩm in trên báo chí như Thái Nam Anh, Lý Hữu Lương, Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Minh Đức, Quỳnh Vân, Viễn Sơn, Nguyễn Đình Xuân,... Cũng như thế hệ trước, xuất phát điểm của họ phần lớn là lính. Từ những chiến sĩ yêu văn chương tập tọe viết lách sau những giờ lăn lộn trên thao trường, bãi tập, họ được Quân đội cho học hành, chập chững bước đi và có người đã khẳng định được mình trên con đuờng sáng tạo nghệ thuật. Trong chiến tranh đã có những cây bút từ bên ngoài bổ sung cho Quân đội, đến thời bình cũng vậy, một số tác giả được lực lượng vũ trang tiếp nhận như Đỗ Bích Thúy, Đoàn Minh Tâm, Phạm Duy Nghĩa, Đoàn Văn Mật,... Đặc điểm nổi bật của những nhà văn Quân đội thời hậu chiến là hầu hết họ đã qua đại học, được tiếp nhận những khuynh hướng, trào lưu sáng tạo nghệ thuật mới trong nước và nước ngoài. Không khí cởi mở của thời kỳ mới cho họ có điều kiện thử sức trong những đề tài, chủ đề khác với thế hệ cha anh, như sự mất mát đau thương, thất bại, phản bội trong chiến tranh; bi kịch xã hội, tình yêu... Tuy nhiên, những thành công của họ để lại dấu ấn trong đời sống văn học, đi vào lòng công chúng và có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội đến đâu? Đã thật sự là món ăn tinh thần với đối tượng độc giả số một là những người lính hay chưa? Đó vẫn là vấn đề bạn đọc tiếp tục quan tâm, tìm hiểu.
Trong lớp nhà văn Quân đội xuất hiện sau năm 1975, có những tác giả khẳng định được mình trên văn đàn; tên tuổi dần trở nên quen thuộc với bạn viết, bạn đọc cả nước; tác phẩm ít nhiều có dư luận. Đó là Trần Anh Thái với những trường ca Đổ bóng xuống mặt trời, Ngày đang mở sáng... Sương Nguyệt Minh với các tập truyện ngắn Người ở bến sông Châu, Mười ba bến nước, Dị hương. Nguyễn Bình Phương với những tiểu thuyết Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Mình và họ. Ngô Vĩnh Bình với tập lý luận phê bình Một chặng đường văn học. Nguyễn Đình Tú với các tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù, Phiên bản, Xác phàm. Phạm Duy Nghĩa với tập truyện ngắn Cơn mưa hoa mận trắng. Đỗ Bích Thúy với tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tiểu thuyết Chúa đất. Đỗ Tiến Thụy với tập truyện ngắn Gió đồng se sắt, tiểu thuyết Màu rừng ruộng. Phùng Văn Khai với tiểu thuyết Hư thực, Phùng Vương. Nguyễn Xuân Thủy với tiểu thuyết Nhắm mắt nhìn trời. Bùi Như Lan với tập truyện ngắn Mùa hoa mắc mật. Phạm Vân Anh với tập thơ Mùa tình... Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, lớp nhà văn Quân đội thời hậu chiến chưa tạo được ảnh hưởng nhiều trong xã hội nói chung và Quân đội nói riêng như thế hệ cha anh mình. Những tác giả “nặng ký” mới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ảnh hưởng của những trang viết với xã hội và người lính còn hạn chế. Chưa có những tác phẩm xuất sắc viết về chiến tranh và người chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ giải phóng đất nước trước đây và bảo vệ, xây dựng Tổ quốc hôm nay. Một số nhà văn còn có vẻ thờ ơ với mảng đề tài này, kể cả những người có tên tuổi. Nếu các nhà văn quân đội không mặn mà với đề tài người lính, ai sẽ kế tục thế hệ cầm bút cha anh viết về chiến sĩ? Sự thiếu hụt về lực lượng và tác phẩm ngày càng lộ rõ hơn; điều ấy cũng có nghĩa rằng, những người lính đang bảo vệ, xây dựng Tổ quốc hôm nay khó tìm thấy các trang viết tươi mới, xúc động về mình.
Thực tế đó đòi hỏi Bộ Quốc phòng và Hội Nhà văn Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc bồi dưỡng lực lượng; quan tâm để sáng tác của các nhà văn Quân đội hướng tới đề tài chiến tranh cách mạng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Về xây dựng đội ngũ, ngoài việc củng cố, tạo điều kiện sáng tác tốt cho các nhà văn, Bộ Quốc phòng nên có chính sách thu hút những cây bút trẻ bên ngoài vào Quân đội; bồi dưỡng họ trở thành người sáng tác theo xu hướng chuyên nghiệp qua các khóa viết văn dài hạn hoặc ngắn hạn, các trại viết trong và ngoài Quân đội. Cần có những trại sáng tác, cuộc thi văn học hướng tới lực lượng vũ trang với tinh thần viết về người lính, cho người lính, vì người lính. Những năm qua, Tạp chí Văn nghệ quân đội chính là cái nôi, là trường học cho các cây bút trẻ trong và ngoài Quân đội; đã phát hiện, giới thiệu tác phẩm và bồi dưỡng nhiều cây bút trở thành tác giả chững chạc trên văn đàn Việt Nam. Thời gian tới, tạp chí cần phát huy mạnh mẽ và thường xuyên hơn. Một điều đáng chú ý, là phải nâng cao hơn nữa chất lượng và uy tín của Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, xem đây là giải thưởng quan trọng trong nền văn học nước nhà. Hội Nhà văn Việt Nam cũng cần có những đóng góp thiết thực trong việc xây dựng đội ngũ nhà văn Quân đội; là “bà đỡ” cho những dự án, tác phẩm về lực lượng vũ trang. Làm được điều đó, chắc chắn đội ngũ nhà văn quân đội cũng như tác phẩm văn học về lực lượng vũ trang sẽ khắc phục được tình trạng thiếu hụt và chất lượng chưa thỏa lòng mong muốn của bạn đọc.