TẠI PHIÊN HỌP THỨ 32 CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Xác định rõ bản chất và đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường

Ðây là dự án luật đã được QH khóa XII thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ bảy vừa qua. Ngay sau kỳ họp, Thường trực Ủy ban Tài chính-Ngân sách (TCNS) đã kịp thời phối hợp Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan của QH tổ chức nghiên cứu, tiếp thu một bước ý kiến đóng góp của các đại biểu QH.

Báo cáo của Thường trực Ủy ban TCNS giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Thuế BVMT đề cập chín vấn đề lớn còn nhiều ý kiến khác nhau và phương hướng tiếp thu, chỉnh lý dự án luật này của Thường trực Ủy ban.

Trong thảo luận, các ý kiến phát biểu tập trung làm rõ hai vấn đề lớn, đó là bản chất của thuế BVMT, mối quan hệ giữa quy định về phí môi trường với thuế BVMT; đối tượng chịu thuế và đối tượng không thuộc diện chịu thuế BVMT.

Theo giải trình của Thường trực Ủy ban TCNS, có ý kiến đề nghị làm rõ: thuế BVMT áp dụng đối với người tạo ra hàng hóa (nhà sản xuất) hay áp dụng đối với người tiêu dùng hàng hóa đó và cho rằng, người sản xuất hàng hóa gây ô nhiễm phải là người chịu thuế mà không phải là người tiêu dùng.

Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa mà khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Nguyên tắc áp dụng thuế là người nào sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm thì người đó phải chịu thuế BVMT. Trên thực tế, bản thân người tiêu dùng là chủ thể gây ô nhiễm do sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm. Xuất phát từ đặc điểm của thuế BVMT, mục đích của việc áp dụng thuế là thể hiện định hướng, điều tiết của Nhà nước đối với việc tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm, nhằm hạn chế việc sử dụng các sản phẩm này; tạo nguồn lực tài chính bù đắp chi phí bảo vệ môi trường; mang ý nghĩa xã hội, góp phần bảo vệ môi trường sống, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển bền vững. Do vậy, việc quy định người tiêu dùng là người chịu thuế; người sản xuất, người nhập khẩu là người nộp thuế là hợp lý.

Có ý kiến cho rằng, cần làm rõ sự khác nhau giữa thuế BVMT và phí môi trường. Hiện nay, có nhiều văn bản quy định về một số loại phí môi trường.

Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, có sự khác nhau về tính chất giữa thuế BVMT và phí môi trường. Theo đó phí môi trường áp dụng vào quá trình sản xuất gây ô nhiễm. Người chịu phí và người nộp phí là người xả thải ra môi trường. Phí môi trường thường gắn với dịch vụ nhất định và được xác định theo nguyên tắc bù đắp chi phí xử lý ô nhiễm môi trường. Phí môi trường hiện bao gồm phí nước thải, phí chất thải rắn, phí khai thác khoáng sản...

Còn thuế BVMT áp dụng cho việc sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm. Người chịu thuế là người tiêu dùng (bao gồm cả tổ chức, cá nhân) do sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm. Người sản xuất, người nhập khẩu là người nộp thay cho người tiêu dùng.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của QH Ðào Trọng Thi thì, phí là đánh vào công nghệ sản xuất hàng hóa chứ không phải đánh vào loại hàng hóa. Công nghệ tiên tiến (công nghệ cao) thì gây ô nhiễm môi trường ít; công nghệ lạc hậu thì gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn. Còn thuế BVMT là đánh vào người tiêu dùng hàng hóa gây ô nhiễm môi trường. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Nguyễn Văn Thuận cho rằng, phí đánh vào công nghệ, thuế lại không đánh vào người sản xuất mà đánh vào người tiêu dùng. Do đó, đề nghị thuế đánh cả vào người sản xuất và người tiêu dùng. Nếu thu phí thì nhà sản xuất sẵn sàng chấp nhận nộp phí mà cứ xả thải ra môi trường chất độc hại chưa qua xử lý. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền cho rằng, phí và thuế đều đánh cả vào người tiêu dùng phải trả. Cho nên, chuyển phí vào thuế và chỉ có một loại thuế BVMT mà thôi. Nếu để cả phí, thuế đối với một sản phẩm thì người tiêu dùng phải chịu cả.

Vấn đề lớn thứ hai thu hút nhiều thành viên Ủy ban Thường vụ QH đóng góp ý kiến, đó là đối tượng chịu thuế. Dự thảo luật quy định năm nhóm hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế, bao gồm: xăng, dầu; than; dung dịch HCFC; túi nhựa xốp và thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng.

Nhiều ý kiến tán thành với quy định của dự thảo luật. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, không chỉ có năm nhóm hàng hóa quy định tại Ðiều 3 của dự thảo luật là tác động xấu đến môi trường mà nhiều loại hàng hóa khác cũng gây hại cho môi trường. Do đó, đề nghị mở rộng đối tượng chịu thuế theo hướng mọi sản phẩm độc hại, tác động trực tiếp đến môi trường đều thuộc đối tượng chịu thuế.

Về vấn đề này trong Thường trực Ủy ban Tài chính-Ngân sách cũng có hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: Với tính chất là đạo luật về thuế BVMT, về nguyên tắc, quy định về đối tượng chịu thuế phải bao hàm mọi sản phẩm, hàng hóa gây tác động tiêu cực đến môi trường. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, chỉ nên quy định năm nhóm đối tượng chịu thuế như trong dự thảo luật đã trình QH. Vì bước đầu áp dụng luật cần có lộ trình thích hợp, lựa chọn những đối tượng phù hợp trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, bảo đảm sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, không gây tác động lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc mở rộng đối tượng chịu thuế sẽ được xem xét trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Pháp luật về thuế BVMT của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả những nước kinh tế phát triển, có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến cũng quy định theo hướng tương tự.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng: Việc lựa chọn đối tượng để áp dụng thuế theo lộ trình là hợp lý, song trước thực trạng môi trường bị hủy hoại, sức khỏe của người dân bị tác động bởi nhiều sản phẩm độc hại, căn cứ vào ý kiến của nhiều đại biểu QH, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, đối với một số sản phẩm có mức độ gây ô nhiễm lớn, tác động nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, sức khỏe con người, gây bức xúc trong xã hội, đề nghị tiếp thu bổ sung vào đối tượng chịu thuế một số mặt hàng. Cụ thể là bổ sung thuốc diệt cỏ do đây là hóa chất đang được sử dụng rộng rãi, khi sử dụng gây ô nhiễm nghiêm trọng cho đất đai, nguồn nước, sức khỏe con người. Bổ sung mặt hàng thuốc lá do thuốc lá là mặt hàng không khuyến khích sử dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Ðưa thuốc lá vào diện chịu thuế BVMT cũng là ý kiến của nhiều đại biểu QH.

Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản quy định mở (khoản quét) để áp dụng khi cần thiết bổ sung đối tượng chịu thuế.

Qua thảo luận, có ý kiến tán thành loại ý kiến thứ nhất của Thường trực Ủy ban TCNS nhưng đề nghị cần có một khoản quy định "mở" để áp dụng khi cần thiết bổ sung đối tượng chịu thuế. Có ý kiến lại tán thành với loại ý kiến thứ hai của Thường trực Ủy ban này.

Nhiều ý kiến phát biểu tán thành việc quy định đối tượng không thuộc diện chịu thuế là hàng hóa xuất khẩu. Các thành viên Ủy ban Thường vụ QH còn cho ý kiến vào các vấn đề như: phương pháp tính thuế, hoàn thuế, biểu khung thuế và phân chia nguồn thu.

Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ QH, cơ quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan có liên quan tiếp tục hoàn chỉnh dự án luật này trình QH vào kỳ họp tới.

Có thể bạn quan tâm