Hỏi: Thưa ông, mức đầu tư toàn xã hội năm 2005 sẽ cao hơn năm 2004, nhưng theo Ngân hàng Nhà nước thì tăng trưởng tín dụng của năm 2005 sẽ chỉ đạt khoảng 22 - 24%, thấp hơn mức 25 - 26% của năm 2004. Vậy thì vốn sẽ được huy động từ đâu?
Trả lời: Trước hết, Chính phủ sẽ tiếp tục cơ cấu và làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, để hệ thống này tiếp tục huy động và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thứ hai là tạo mọi điều kiện thuận lợi, tháo gỡ rào cản, đồng thời, hỗ trợ về mặt chính sách, về quản lý, để các doanh nghiệp có điều kiện phát triển nhanh, cả về số lượng và quy mô. Một khi được tạo thuận lợi, doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm vốn để mở rộng sản xuất, và chúng ta có thể tận dụng được kênh huy động vốn này. Thứ ba là đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để thu hút vốn qua phát hành cổ phiếu. Nhà nước sẽ chỉ tập trung vốn vào những lĩnh vực quan trọng của quốc gia, như phân bón, điện lực, dầu khí...
Hỏi: Trước đây, Bộ Tài chính đã từng cho rằng, vốn nhàn rỗi trong dân cư vào khoảng 60.000 tỷ đồng. Cho đến nay, con số này có gì thay đổi không và chúng ta có thể hy vọng gì ở nguồn vốn này, thưa ông?
Trả lời: Tôi cho rằng, 60.000 tỷ đồng chỉ là con số vốn nhàn rỗi trong dân cư có thể huy động được, còn con số thật sự có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, con số này cũng sẽ gia tăng theo từng năm. Vì vậy, các doanh nghiệp, kể cả các tổng công ty nhà nước, các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực: thủy điện, xi-măng, bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin... đều có thể lập dự án để phát hành trái phiếu, cổ phiếu, nhằm huy động vốn trong dân cư. Không chỉ huy động vốn trong nước, chúng ta cũng có thể mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến, để cùng góp vốn, xây dựng các công ty mới.
Hỏi: Tuy nhiên, sẽ không dễ huy động được nguồn vốn đầy tiềm năng trong dân cư, nếu như doanh nghiệp chưa tạo được niềm tin với công chúng. Theo ông, chúng ta nên khơi thông nguồn vốn này bằng cách nào?
Trả lời: Một trong những giải pháp cần thiết là phải tạo được sự công khai, minh bạch. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa, việc định giá doanh nghiệp theo thị trường là rất quan trọng. Nếu được đánh giá đúng và mọi thông tin trước khi bán cổ phần ra bên ngoài được công khai, minh bạch thì chắc chắn là hiệu quả thu hút vốn từ công chúng sẽ cao hơn nhiều. Chẳng hạn, cổ phần của Công ty Bảo Minh khi bán ra bên ngoài đã gấp 2,16 lần so với giá ban đầu. Hay như Ngân hàng Ngoại thương cũng vậy. Nếu mà đem đấu giá Ngân hàng này, hay mời các nhà đầu tư quốc tế vào đánh giá thì giá trị của nó sẽ không chỉ là 5.000 tỷ đồng theo vốn điều lệ nữa, mà chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.
Hiện nay, vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ vào khoảng hơn 200.000 tỷ đồng, nhưng nếu được định giá theo thị trường và bán ra bên ngoài thì có thể sẽ lên tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng.
Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ tiếp tục tiết giảm việc đầu tư bao cấp, kể cả với doanh nghiệp nhà nước; tín dụng ưu đãi cũng chỉ áp dụng hạn chế ở một số đối tượng. Ngay cả đối với xí nghiệp công ích cũng sẽ chuyển sang hình thức mua sản phẩm, chứ không thực hiện hình thức cấp đủ đầu vào nữa. Tất cả những hoạt động đó sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp, vốn của dân cư được huy động nhiều hơn.
Hỏi: Mặc dù vốn trong nước được đánh giá là rất dồi dào, nhưng vẫn có đề xuất về việc huy động vốn trên thị trường quốc tế. Theo ông, mức vay nợ của Việt Nam hiện nay có thể cho phép huy động vốn quốc tế?
Trả lời: Tôi cho rằng, trước hết nên tạo thuận lợi cho việc gọi vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta đã mở rộng cửa hơn cho một số lĩnh vực trước đây vẫn còn thận trọng, như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông... Khi chúng ta gia nhập WTO thì các lĩnh vực này sẽ mở cửa, đầu tư nước ngoài vào sẽ lớn. Tôi tin rằng, lúc đó, đầu tư toàn xã hội sẽ không chỉ bằng 37 - 38% GDP như hiện nay, mà có thể lên tới 40% GDP.
Với tỷ lệ nợ nước ngoài hiện nay là 32% GDP, kể cả nợ của doanh nghiệp, chúng ta vẫn đủ điều kiện an toàn để có thể phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Tuy nhiên, nếu có đi vay thì chúng ta phải tính toán kỹ mục đích vay, hiệu quả sử dụng vốn thế nào, chứ không thể đi vay ẩu được.