"Sóng thần nếu xảy ra từ một hướng ở mạn Đông Bắc, khả năng các vùng từ tỉnh Thanh Hóa đến bờ biển Nha Trang chịu tác động mạnh nhất" - PGS, TS Nguyễn Ngọc Thủy, Viện trưởng Viện Vật lý Địa cầu thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Viện Nam nói.
Lo ngại một hệ thống cảnh báo yếu
Trong khi người ta đang chú ý vào các thông kê về thiệt hại và khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do sóng thần xuất phát từ trận động đất 8,9 độ Richter ở đảo Sumatra (Indonesia) gây ra, điều rất khó hiểu là cho đến sáng thứ Hai, 27-12-2004, trên internet cũng như các đài truyền hình quốc tế, không nhắc đến câu hỏi liệu có khả năng dự báo thiên tai này không. Chưa thấy đâu công bố các ảnh chụp vệ tinh về sự xuất hiện của "con quỷ" sóng thần. Chưa thấy công bố kết quả đo địa chấn trận động đất mạnh nhất trong vòng 40 năm qua (có nguồn nói trong vòng 50 năm qua) được xác định từ thời điểm nào.
Với tốc độ di chuyển khoảng 500km/giờ, như nhà địa vật lý Don Blakeman ở NEIC nói, sóng thần muốn đến bờ biển Thái-lan phải mất nửa giờ và để đến vịnh Bengal cách xa hơn 1.500km phải mất ba giờ đồng hồ.
"Tôi chắc các thông số về động đất và sóng thần có thể biết sớm ngay sau khi xảy ra bằng thiết bị hiện đại ngày nay", TS Lê Bắc Huỳnh, Phó Cục trưởng Cục Quán lý Tài nguyên Nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhận định, "Nếu công bố sớm, nhất định sẽ giảm được thương vong".
Vẫn theo Blakeman, tất cả các trận sóng thần đều bị kích hoạt bởi cơn động đất đầu tiên chứ không phải bởi các dư chấn hay các trận động đất nối tiếp sau đó. Tại Sumatra, sau "cú đấm" kinh hoàng từ dưới lòng đất mạnh 8,9 độ Richter, Blakeman cho biết, có tới chín dư chấn đáng kể. Dư chấn thứ nhất mạnh 7,3 độ Richter phát xuất từ vị trí cách thủ phủ Banda Aceh (cực Bắc quần đảo Sumatra) đang bất ổn về chính trị 300km về phía tây bắc khoảng bốn tiếng sau kể từ 0759 sáng, thời điểm trận động đất đầu tiên. Các dư chấn tiếp theo, vẫn số liệu của NEIC, có độ mạnh 6,1 độ Richter.
Cứ theo các kết quả đó, TS Lê Bắc Huỳnh trước đây công tác bên ngành khí tượng thủy văn và cũng quan tâm đến sóng thần băn khoăn tại sao không thể thông báo sớm cho các quốc gia lân cận. Ông cho rằng làm sáng tỏ nguyên nhân này sẽ giúp kiện toàn hệ thống cảnh báo tương lai trên quy mô toàn cầu. "Điều đó cũng thiết thực cho từng quốc gia khi mà còn lâu con người mới hiểu biết hết về tự nhiên", TS Huỳnh cho biết thêm, ngay ở Việt Nam dường như cũng chưa có chuyên ngành nghiên cứu nào về sóng thần. "Có chăng chỉ có ở Phân viện Hải dương học Nha Trang và ở Viện Vật lý Địa cầu".
Việt Nam ít có nguy cơ bị sóng thần
Cuối những năm 90 của thế kỷ trước, ngư dân các tỉnh ven biển Việt Nam loan truyền nhau về hiện tượng không giải thích được là thỉnh thoảng có con sóng rất lớn bất chấp biển lặng. Các đồn đoán và lo ngại đó là khởi nguồn cho đề tài với kinh phí hẻo nói trên. Về sau các nhà khoa học nhận thấy các con sóng lớn đó có thể do những trận động đất 2-3 độ Richter ở vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa gây nên. Tuy nhiên vẫn chưa có lời giải thích nào liệu các "sóng thần" ấy có góp phần làm cho tình trạng triều cường một số tỉnh phía nam nặng lên như thời gian gần đây hay không.
Điều đáng chú ý là nhóm các nhà khoa học thực hiện đề tài lần đầu tiên về sóng thần lại tỏ ra lạc quan về nguy cơ sóng thần ở Việt Nam. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Thủy, sóng thần do nguồn động đất xa và gần gây ra đều không nguy hiểm cho vùng bờ biển và hải đảo của Việt Nam. Nguy cơ thứ nhất phải xuất từ đứt gãy có tên sông Hồng, một trong số các đứt gãy lớn có khả năng phát sinh động đất lớn. Đứt gãy sông Hồng là ranh giới giữa mảng lục địa Đông Dương và Hoa Nam, phần á kinh tuyến kéo dài từ phía nam đảo Hải Nam đến phía Đông bể Cửu Long. Trong các nghiên cứu công bố từ năm 1996 đến 2003, động đất cực đại phát sinh ở đới Sông Hồng này chỉ có thể đạt 6,2 hoặc cùng lắm là 6,5 độ Richter.
Tuy nhiên theo số liệu của Trung Quốc, động đất cực đại ở vùng này chỉ 6,0 độ Richter. Hơn nữa, ghi nhận suốt chiều dài 4.000 năm cho thấy đứt gãy Sông Hồng (phần trên lãnh thổ Trung Quốc) chưa gây ra trận động đất nào lớn hơn 5,5 độ Richter.
Từ đây, bằng công thức toán, các nhà khoa học suy ra sóng thần do động đất gây ra bởi đới Sông Hồng cùng lắm chỉ cao độ 0,65m.
Nguy cơ thứ hai là từ vùng biển Philippines. Những trận động đất mạnh phát sinh trên đứt gãy nghịch mang tên Manila Trench chạy dọc ngoài khơi phía tây Philippines từ mạn đông đảo Bandar Seri Begawan đến mạn bắc đảo Luzon. Từ năm 1627 đến 1994, đứt gãy này gây ra tám trận động đất lớn với cường độ trên 7 độ Richter. Kèm theo đó là sóng thần ảnh hưởng đến bờ biển phía tây nước này.
Rất may, khoảng cách gần nhất từ chấn tâm động đất gây sóng thần từ đới lún chìm Manila Trench đến bờ biển và hải đảo Việt Nam là 1.100km. Và chiều cao sóng thần khi đến Việt Nam chỉ còn 0,5m. Mặt khác, do được chắn bởi đảo Hải Nam của Trung Quốc, vùng ảnh hưởng của Việt Nam, nếu có, cũng chỉ dao động từ Thanh Hóa đến Nha Trang.
Tuy nhiên, một số nhà khoa học cho rằng vùng bờ biển Việt Nam nhiều đoạn có độ cao rất thấp. Triều cường gây ngập úng thường xuyên TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận là thí dụ. Mật độ dân cư sinh sống ven biển nước ta lại thuộc hàng cao trên thế giới. Sóng thần dù chỉ cao 0,5-0,65m như tính toán cũng có thể gây thiệt hại khôn lường nếu nó kết hợp với triều cường. Các nhà khoa học đề nghị cần có nghiên cứu bài bản hơn về địa chấn và sóng thần nói riêng đồng thời phải quy hoạch lại các vùng ven biển có tính đến nguy cơ nước biển dâng do triều cường và sóng thần.
Trận động đất mới nhất được gọi là đáng kể của Việt Nam là ở tỉnh Lai Châu xảy ra ngày 20-2-2001 chỉ có 5,3 độ Richter. Gớm nhất cũng là trận xảy ở Điện Biên năm 1935 mạnh 6,75 độ richter. Trận ở Tuần Giáo năm 1983 mạnh 6,7 độ richter làm rung chuyển cả thành phố Hà Nội. |