Ngay từ khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, hơn 60 năm qua, hàng nghìn công trình nghiên cứu về Việt Nam của hàng vạn học giả nước ngoài đã được công bố, trao đổi, thảo luận với nhiều nội dung phong phú xoay quanh các chủ đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử Việt Nam từ cổ - trung đại đến cận - hiện đại, ngôn ngữ học, khảo cổ học, dân tộc học, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, hán nôm, đặc biệt có nhiều công trình đồ sộ nghiên cứu về Cách mạng Tháng 8 năm 1945; về Chủ tịch Hồ Chí Minh; về cuộc kháng chiến chống Mỹ và công cuộc đổi mới, hội nhập của dân tộc Việt Nam.
Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, ngày nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên của hàng trăm tổ chức quốc tế, khu vực và tiểu vùng. Việc nghiên cứu về Việt Nam hay còn gọi là Việt Nam học (VNH) có sức hấp dẫn và đã trở thành một môn học chính thức ở nhiều học viện, trường đại học, viện nghiên cứu khắp năm châu và là những đề tài vô cùng phong phú của các học giả nước ngoài.
- Về tổ chức, có Hội Việt Nam học châu Âu (EURO - VIET) là hội lớn, được thành lập năm 1993 do TS. Xtên Tô-nét-xơn - một học giả người Na Uy khởi xướng. Hội định kỳ 2 năm một lần tổ chức hội thảo về Việt Nam, đến nay đã tổ chức được 5 hội thảo luân phiên ở Ðan Mạch, Pháp, Hà Lan, Ðức, Nga, mỗi lần có từ 400 - 500 nhà khoa học trên thế giới tham gia. Tiếp theo là Hội VNH ở Nhật Bản, thành lập năm 1990 với hơn 100 thành viên là những chuyên gia về Việt Nam, tiêu biểu như Yamamoto, Tshuboi, Sakurai, Momoki Siro. Sau Nhật Bản phải kể đến các tổ chức chuyên nghiên cứu về Việt Nam ở các trường đại học lớn trên thế giới như Trung tâm VNH ở Ðại học Moscow (Liên bang Nga), Trung tâm Việt Nam ở Ðại học Texas và Trung tâm nghiên cứu Ðông-Nam Á ở Ðại học Los Angeles California (Hoa Kỳ), Viện nghiên cứu Việt Nam ở Ðại học Trịnh Châu (Trung Quốc), Khoa VNH tại Ðại học Han-cúc và Ðại học Chung-uôn (Hàn Quốc).
Có thể nói, ở cấp quốc gia, Pháp có nền VNH sớm nhất và có nhiều chuyên gia kỳ cựu, có một bề dày về tư liệu Việt Nam vào bậc nhất thế giới. Kế tục sự nghiệp của Viện Viễn đông Bác cổ trước đây, các nhà VNH ở Pháp nghiên cứu về sử học, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, dịch và công bố các tư liệu quý, các công trình biên khảo có giá trị về Việt Nam. Pháp hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam trong một chương trình đồ sộ nghiên cứu về đồng bằng Bắc Bộ.
Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp xúc với các nguồn tư liệu cổ của Việt Nam, cách nghiên cứu và tiếp cận với Việt Nam có quy mô lớn và chiều sâu không kém so với nền VNH của Pháp. Hiện nay, Trung Quốc có tới 743.000 nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực, vượt Pháp, Ðức, Nhật; trong đó có hàng trăm nhà VNH có nhiều công trình nghiên cứu phục vụ yêu cầu của Chính phủ Trung Quốc, nghiên cứu về Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời tăng cường dịch tài liệu, biên khảo tác phẩm cổ.
Các nhà VNH ở Mỹ chủ yếu tập trung nghiên cứu thời kỳ hiện đại. Trước khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, Mỹ được các nước coi là Trung tâm nghiên cứu Việt Nam lớn nhất với những trường đại học nổi tiếng về VNH như Conen, Harvard, Columbia... và những chuyên gia VNH có tên tuổi như: Giôn Uýt Mo, Út-đơ-xai, Kết Tay-lo... Sau năm 1975, sự quan tâm nghiên cứu về Việt Nam ở Mỹ có phần giảm xuống, nhiều nhà VNH người Mỹ đã đi ra nước ngoài.
Nhưng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, ngành VNH ở Mỹ có xu hướng phục hồi trở lại. Tại trung tâm Việt Nam ở Ðại học Texas, định kỳ hằng năm người ta tổ chức hội thảo về chiến tranh Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chính cuốn "Nhật ký Ðặng Thùy Trâm" cũng được giới thiệu tại diễn đàn này vào một ngày tháng 3 năm 2005, để rồi nó trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay và là cuốn sách đang được dịch ra gần chục thứ tiếng khác nhau giới thiệu với hàng triệu bạn đọc trên thế giới.
Ở Mỹ, có hai nguồn quỹ đã từ nhiều năm nay thường xuyên tài trợ cho các công trình VNH, đó là Ford Foundation và Reynold Foundation.
Ngày nay, các nhà khoa học nhận định rằng, nền VNH ở Mỹ sẽ là mạnh nhất ở hải ngoại vì sự quan tâm ngày càng lớn của Mỹ tới Việt Nam và vì có tiềm lực tài chính hùng mạnh.
Tại Nga, nền VNH chủ yếu hình thành sau năm 1954, thời kỳ 1954 - 1990, phát triển mạnh nhưng dựa trên cơ sở bao cấp, nguồn tư liệu và mức chuyên sâu có thể chưa bằng một số nước phương Tây. Khuynh hướng chính là nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về lịch sử, ngôn ngữ, văn học, kinh tế, chính trị Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo thống kê, riêng ở Nga đã có tới 4.000 công trình đã được công bố. Hiện nay, Nga có khoảng 400.000 nhà khoa học, nhưng vẫn thiếu vắng những nhà VNH nổi tiếng.
Ở Australia, một điều ngạc nhiên là nền VNH dường như có sự phát triển vượt bậc. Có hai trung tâm nghiên cứu Việt Nam lớn nhất được đặt tại Ðại học Mác-can ở Sydney và Ðại học A-nu ở Canbera.
Ở các nước Bắc Âu như Thụy Ðiển, Na Uy, Ðan Mạch, Hà Lan đã hình thành một nền VNH tương đối đặc sắc, trong đó có hai trung tâm lớn nhất là ở Stockhom (Thụy Ðiển) và ở Copenhagen (Ðan Mạch). Họ đã tổ chức thành công nhiều hội thảo, hội nghị khoa học và nhiều cuộc tọa đàm về Việt Nam trong các lĩnh vực văn học, lịch sử, văn hóa, xã hội học, kinh tế xã hội.
Các tổ chức quốc tế lớn như: IMF, WB, FAO, UNDCP, UNIDO, UNICEP, UNESCO... cũng có nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam nhưng chủ yếu nhằm mục đích hiểu biết về Việt Nam để phục vụ nhu cầu công việc của họ, theo yêu cầu chuyên môn. Họ thu thập được nhiều số liệu, tư liệu qua các nguồn chính thức, công khai nhằm phục vụ hoạch định chính sách và biện pháp ở tầm vĩ mô. Các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế đã góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hợp tác giúp đỡ Việt Nam có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực.
- Về các công trình nghiên cứu lớn: Có thể nói hơn 60 năm qua, không có một đề tài nào trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam được giới học giả nước ngoài quan tâm, nghiên cứu và thảo luận như cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong số các công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cận đại thì tác phẩm của nhà sử học Na Uy Tô-nét-xơn "Cách mạng Việt Nam năm 1945 - Ru-dơ-ven - Hồ Chí Minh và Ðờ Gôn trong chiến tranh thế giới" và tác phẩm của Ða-vít Ma "Nước Việt Nam năm 1945: cuộc săn tìm quyền lực", xuất bản năm 1995 tại Mỹ là hai công trình nổi tiếng về cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Nét đặc sắc của hai công trình này là ở chỗ các tác giả đã khai thác và sử dụng một khối lượng tư liệu khổng lồ từ nhiều kho lưu trữ và thu thập được qua nhiều nhân chứng lịch sử, đã rất thành công trong việc tái hiện cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa thu năm 1945 một cách sinh động, cụ thể và khá chân thật, thực sự là sự nghiệp của quần chúng.
Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Hội thảo quốc tế do UNESCO tổ chức tại Hà Nội có 70 tham luận của đại biểu 34 nước về đề tài Việt Nam - Hồ Chí Minh. Cũng trong năm 1990, Ấn Ðộ đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo Nghị quyết của UNESCO với hàng vạn người tham gia. Năm 2002 đã có 300 công trình nghiên cứu về Bác Hồ của các học giả quốc tế.
Riêng ở Việt Nam đến nay có hơn 600 công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người. Trong các công trình của học giả nước ngoài nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh phải kể đến các tác phẩm lớn như: "Hồ Chí Minh" của Giăng Lacutuya; "Hồ Chí Minh - Việt Nam - châu Á" của Pôn Muy-sơ; "Hồ" của Ðavie Hăm-bơ-xtơn...
Nhiều lãnh tụ cách mạng, nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã có những đánh giá sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ðồng chí Phiđen Ca-xtơ-rô, Chủ tịch Ðảng Cộng sản Cu-ba phát biểu: "Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trong chủ nghĩa Mác - Lê-nin bài học và con đường tìm ra giải pháp cho tất cả các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức và bóc lột. Sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng xã hội là hai điều then chốt trong học thuyết của Người".
Ðồng chí Gớt Hôn, Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Mỹ đã viết: "Ðồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ và là một nhà tư tưởng mác xít - lêninnít vĩ đại của thế giới. Ðồng chí Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất hiện đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử, với những tư tưởng và ý kiến đúng. Chính vì vậy mà đồng chí đã làm ra lịch sử". Ông T.N.Côn, Chủ tịch Trung tâm nghiên cứu về Việt Nam của Ấn Ðộ viết: "Bác Hồ, cách gọi trìu mến của chúng tôi ở Ấn Ðộ, đã kết hợp được trong bản thân Người những đặc tính lớn của Mác, Lê-nin, Mahátma Găngđi, Giaoaháclan Nêru".
Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu quy mô khác nhau về Việt Nam. Ở Nhật Bản, có cuốn sách của nhà VNH Su-boi "Việt Nam trước thềm đổi mới" cũng được coi là bán chạy nhất (best-seller), in tới 50.000 bản. Một báo cáo khoa học của GS.Mô-mô-ki Su-rô, Ðại học Oska, Nhật Bản với tiêu đề "Biến đổi xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIV thông qua bia đá" được các nhà VNH thế giới đánh giá cao. Ở Nga, có công trình nghiên cứu của TS. A.B.Pô-li-a-cốp về "Sự chuyển đổi triều đại của Ðại Việt thế kỷ XII"; ở Úc, có công trình nghiên cứu "Việt Nam trong ASEAN: sự đa phương hóa và quan hệ với các cường quốc" của GS. C.A.Thay-ơ - Ðại học New South Wale là những công trình khoa học nghiêm túc, công phu, có ý nghĩa.
Một nước Việt Nam năng động, sáng tạo, yêu hòa bình và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới lớn đang ngày càng trở thành đối tượng nghiên cứu say mê của các nhà khoa học khắp năm châu.