Việt Lai 20 là giống lúa lai hai dòng hạt dài từ giống mẹ 103S và giống bố R20. Ưu điểm lớn nhất của giống lúa này là thời gian trồng ngắn: khoảng từ 110 đến 115 ngày đối với vụ đông xuân và 85 đến 90 ngày đối với vụ hè thu - ngắn hơn giống lai chuẩn Bồi tạp Sơn Thanh nhập của Trung Quốc từ 10 đến 15 ngày và ngắn hơn giống một dòng thuần chủng C70 khoảng 30 ngày. Ưu điểm ngắn ngày này cho phép giải phóng đất sớm để người nông dân có thể gieo trồng các loại rau, cà chua, ngô, đậu và các loại hoa màu khác có giá trị kinh tế cao trước và sau khi canh tác lúa.
Việt Lai 20 còn có ưu điểm kháng bệnh cao đối với bệnh rầy nâu và bạc lá. Giống lúa này rất phù hợp với các vùng đồng bằng và miền núi, cũng như các vùng đất không màu mỡ. Sản lượng của Việt Lai 20 khá cao: từ bảy đến tám tấn một ha đối với vụ đông xuân và từ 6,5 đến bảy tấn đối với vụ hè thu. Tiềm năng sản xuất hạt giống của cả giống bố mẹ và F1 đều cao nên góp phần làm giảm giá hạt giống đáng kể so với những giống lúa khác .
Với những ưu điểm nói trên, Việt Lai 20 đã nhanh chóng được nông dân chấp nhận và đưa ra canh tác trên diện rộng ở các tỉnh Thanh Hóa, Hải Phòng, Lào Cai, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Nội, Hưng Yên. Năm 2002, Việt Lai 20 mới chỉ được trồng trên diện tích 500 ha. Tuy nhiên, với lợi thế của giống lúa mới đáp ứng được những yêu cầu hàng đầu của người nông dân, nên diện tích canh tác Việt Lai 20 đã tăng nhanh chóng trong những năm sau đó:
Năm 2003 - 7.500 ha; năm 2004 - 17.000 ha và dự kiến năm 2005 là 25.000 ha.
Tâm nguyện của một nhà khoa học Việt Nam
Tác giả của giống lúa Việt Lai 20 - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoan, Trưởng bộ môn Di truyền - Chọn giống cây trồng thuộc Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội là một người tầm thước, tóc còn xanh, dáng chắc lẳn, nhanh nhẹn, sôi nổi và không đeo kính.
Tốt nghiệp đại học ở Bulgaria và về Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội công tác từ năm 1977 đến nay, nhà giáo - nhà khoa học Nguyễn Văn Hoan ngoài nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ còn say sưa nghiên cứu khoa học với một niềm đam mê và một mong ước cháy bỏng: phát triển được giống lúa có nhiều ưu điểm, phù hợp điều kiện trồng cấy ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của người nông dân một nắng hai sương và cuối cùng là góp một phần sức lực đẩy tới công cuộc xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn nước ta. Ðể đi tới thành công của giống Việt Lai 20, trước đó ông đã nghiên cứu thực nghiệm 3.000 tổ hợp lai khác nhau. Ông nói, ông gặp may vì đây là một tỷ lệ thành công cao. Thường các nhà khoa học muốn tìm được một giống mới phải thực nghiệm khoảng 8.000 tổ hợp lai.
Sau khi tìm được giống Việt Lai 20, mong muốn tiếp theo của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoan là làm thế nào để nhanh chóng nhân giống và đưa ra trồng đại trà trong thời gian sớm nhất. Ðể thực hiện được điều này, ông đã tích cực liên hệ với nhiều đối tác nhằm xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh trong việc nhân giống lúa lai hai dòng Việt Lai 20. Ðến nay với những nỗ lực không mệt mỏi, hệ thống này đã được xây dựng với một quy trình sản xuất giống lúa mà mỗi đơn vị trong hệ thống đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Hệ thống này gồm có Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội - nơi sản xuất hạt giống gốc (hay còn gọi là hạt tác giả), Trung tâm giống nông lâm Bắc Hà (Lào Cai) - sản xuất hạt siêu nguyên chủng và Công ty dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Hải Phòng - sản xuất hạt nguyên chủng dòng bố mẹ và sản xuất hạt lai F1. Hạt lai F1 là hạt giống bán cho nông dân để gieo cấy trồng lúa thương phẩm.
Hỗ trợ tích cực của JICA
Từ năm 1998 đến năm 2003, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã triển khai "Dự án nâng cao khả năng giáo dục và nghiên cứu của Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội" (HAU-JICA ERCB). Dự án này có tổng số vốn đầu tư lên tới hơn 2,5 triệu USD. Sau năm năm triển khai, dự án đã đạt kết quả tích cực, có những đóng góp lớn vào việc nâng cao trình độ và phát triển nguồn nhân lực tại chỗ, phục vụ sự nghiệp giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Một trong những thành tựu mà Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội đạt được thông qua sự hợp tác và hỗ trợ tích cực của chuyên gia JICA chính là giống lúa Việt Lai 20. Sự hỗ trợ tích cực này đã góp phần nhanh chóng đưa Việt Lai 20 sớm được công nhận là giống lúa quốc gia.
Giống lúa Việt Lai 20 được Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoan nghiên cứu thành công và đưa vào trồng thử nghiệm từ năm 1996. Những kết quả nghiên cứu thử nghiệm về Việt Lai 20 sau đó đã được các chuyên gia JICA tại dự án HAU-JICA ERCB đánh giá cao và tích cực ủng hộ việc đẩy nhanh quá trình nhân giống lúa. Sự ủng hộ tích cực này gắn liền với công sức, sự nhiệt tâm và tình cảm yêu mến Việt Nam của chuyên gia JICA tại dự án: ông Hi-đê-phư-mi Sê-kô, tiến sĩ chuyên ngành gien cây trồng nổi tiếng của Nhật Bản.
Ðến Việt Nam công tác tại dự án từ năm 2000, ngay lập tức ông H.Sê-kô đã tư vấn và hỗ trợ các nhà khoa học Việt Nam trong các hoạt động liên quan dự án HAU - JICA ERCB, nhất là đối với việc nghiên cứu và nhân giống lúa Việt Lai 20. Năm 2001, ông đã tư vấn và hỗ trợ công tác thu thập các giống lúa địa phương, nghiên cứu bệnh bạc lá lúa.
Năm 2002 - hỗ trợ việc mở rộng diện tích canh tác Việt Lai 20 ở nhiều tỉnh; nghiên cứu bệnh rầy nâu; xây dựng khu ruộng có tường bao chống chuột và hệ thống bơm tưới hiện đại tại khu vườn thí nghiệm; mở rộng các hoạt động thí nghiệm liên quan Việt Lai 20.
Năm 2003, khi dự án HAU-JICA ERCB kết thúc, JICA đánh giá kết quả dự án và nhất trí mở rộng giai đoạn tiếp nối trong thời gian một năm với vốn đầu tư bổ sung 35.000 USD để hỗ trợ quá trình nhân giống Việt Lai 20. Và ông H.Sê-kô lại tiếp tục nhận nhiệm vụ làm chuyên gia dài hạn tại giai đoạn tiếp nối này. Trong thời gian một năm (kể từ tháng 8-2003) ông đã tích cực tham gia hỗ trợ việc xây dựng thêm nhà lưới mới ở khu ruộng thí nghiệm của trường, trang bị thêm máy tuốt lúa hiện đại, tủ lạnh sâu để bảo quản giống, hỗ trợ củng cố hệ thống nhân giống lúa lai hai dòng Việt Lai 20 ở Bắc Hà (Lào Cai) và ở Hải Phòng, cung cấp thêm nhiều gien đặc hiệu để phát triển giống lúa lai.
Với sự hỗ trợ tích cực của chuyên gia JICA H.Sê-kô, Việt Lai 20 đã được nhân giống nhanh chóng và được nông dân chấp nhận rộng rãi. Ðiều này giúp cho Việt Lai 20 được công nhận là giống lúa quốc gia sớm hơn từ hai đến ba năm so với thông thường. Khi được hỏi về cảm nghĩ của mình trong thời gian công tác ở Việt Nam, ông H.Sê-kô cười rạng rỡ và nói, ông muốn công tác ở Việt Nam lâu dài và điều mà ông rất mừng, rất phấn khởi là được tận mắt chứng kiến giống lúa Việt Lai 20 được công nhận là giống lúa quốc gia của Việt Nam ngay trong thời điểm dự án chuẩn bị kết thúc. Ðối với ông, một chuyên gia gien học thuộc Tổ chức gien lúa quốc tế, điều này càng có ý nghĩa hơn khi năm 2004 được LHQ tuyên bố là Năm quốc tế về lúa gạo.
Hệ thống nhân giống lúa
Cùng với việc đưa Việt Lai 20 trở thành giống quốc gia, lần đầu tiên trong lĩnh vực nông nghiệp nước ta đã hình thành một hệ thống nhân giống lúa hoàn chỉnh, trong đó các đơn vị thuộc hệ thống có mối quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi đơn vị trong hệ thống này là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ hệ thống.
Ðể tham gia hệ thống, Trung tâm giống nông lâm Bắc Hà (Lào Cai) - nơi có điều kiện thuận lợi về thời tiết cho việc sản xuất hạt siêu nguyên chủng - tự bỏ vốn đầu tư hơn 300 triệu đồng xây dựng khu ruộng sản xuất hạt siêu nguyên chủng. Công ty dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Hải Phòng đã mua bản quyền công nghệ sản xuất hạt giống bố mẹ và giống F1 từ tác giả với giá 320 triệu đồng. Với việc mua bản quyền này, thị trường công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp đã được mở ra và lần đầu tiên một nhà nghiên cứu khoa học đã bán được sản phẩm của mình và dùng số tiền thu được phục vụ tái đầu tư nghiên cứu khoa học.
Nói về quá trình trở thành một thành viên trong hệ thống nhân giống lúa quốc gia đầu tiên của Việt Nam, bà Phạm Thị Cằng, Giám đốc Công ty dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Hải Phòng, cho biết, khi bà đến Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội đề nghị giúp đỡ tìm loại giống lúa ngắn ngày phục vụ công tác chuyển đổi cây trồng với mục đích giải phóng đất sớm để có thể trồng hai vụ cà chua trong năm, công ty của bà đã rất phấn khởi được trường đáp ứng yêu cầu bằng giống lúa lai hai dòng Việt Lai 20.
Bà cho biết, Việt Lai 20 có nhiều ưu điểm vượt trội so với khoảng mười tổ hợp lai khác nhập từ Trung Quốc và Ấn Ðộ mà công ty của bà đã trồng. Trong đó chi phí giá thành để sản xuất giống Việt Lai 20 thấp hơn hẳn, chất lượng hạt giống cao, được Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương công nhận là giống đạt chất lượng loại I. Công ty của bà đã tổ chức đưa cán bộ kỹ thuật đến với bà con nông dân ở các tỉnh để trồng thí điểm và thực hiện chuyển giao công nghệ. Năm đầu, công ty trồng thí điểm miễn phí. Sau khi tận mắt chứng kiến kết quả tốt, từ năm sau bà con nông dân ở nhiều tỉnh đã chuyển sang mua giống Việt Lai 20 do công ty sản xuất để gieo trồng. Việt Lai 20 cho loạt gạo hạt trong, dài, mềm cơm, không bết như một số loại gạo khác, bởi vậy loại gạo này đang được thị trường ưa chuộng và được nông dân bán ra với giá đắt hơn 10% so với gạo bình thường. Việt Lai 20 còn có ưu điểm là loại lúa có tính chống chịu cao, dễ tính, có thể trồng được ở vùng đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng, phù hợp vùng trung du và miền núi.
Bà Phạm Thị Cằng tâm sự, thành công của Việt Lai 20 chính là thành công của sự kết hợp giữa ba nhà: nhà doanh nghiệp, nhà trường (nhà khoa học) và nhà nông. Bà cho biết, dự kiến năm 2005, công ty của bà sẽ ký tiếp hợp đồng với Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội để trồng giống lúa Việt Lai 20 có nhiều ưu điểm mới.
Nói về quyết định của công ty mua bản quyền công nghệ sản xuất hạt lai F1 giống lúa Việt Lai 20, bà Phạm Thị Cằng khẳng định, đây là hướng đi hoàn toàn đúng của công ty trong quá trình thị trường công nghệ trên lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta đang được hình thành. Việc mua bản quyền này đã đem lại thành công bước đầu cho công ty. Hiện công ty đã cử cán bộ kỹ thuật đến nhiều tỉnh đáp ứng yêu cầu hướng dẫn thực hiện công nghệ sản xuất hạt lai F1 ở ngay các hợp tác xã. Bà tỏ ý tin tưởng, với những ưu điểm vượt trội, Việt Lai 20 sẽ dần thay thế khối lượng giống lúa lớn hằng năm nước ta vẫn phải nhập từ nước ngoài, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ đáng kể cho đất nước.