Trám có hai loài:
Trám trắng tên khác là cây bùi, cà na, cảm lãm, thanh quả, mạy cưởm, mác cơm (Tày). Cây to cao 20m. Cành non có lông mầu hung. Lá kép, mọc so le, mặt dưới hơi ánh bạc, hai mặt đều có lông. Hoa mầu trắng. Quà hạch, mầu lục.
Cây mọc tự nhiên ở trung du và miền núi.
Trám đen, tên khác là ô lãm, mộc uy tử. Cây to, cao khoảng 10m. Quả mầu tím đen.
Cây mọc tự nhiên ở rừng núi.
Cây trám được sử dụng phổ biến trong dân gian làm thuốc chữa nhiều bệnh:
- Chữa đau răng, sâu răng: Danh y Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng quả trám đốt thành than, tán bột, trộn với ít xạ hương, bôi xỉa. Nhân dân lại dùng vỏ thân thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa xuân, cạo vỏ bần bên ngoài, rửa sạch, phơi khô, thái mỏng, sắc lấy nước đặc, ngậm nhổ nước. Ngày làm nhiều lần. Có thể phối hợp với rễ cà dại, rễ chanh và vỏ cây lai hay cây trầu.
- Chữa viêm họng, miệng khô, khát nước: Lấy 500g quả trám trắng (thu hái vào mùa thu) rửa sạch, đập lấy cùi, bỏ hạt. Cho cùi quả vào nồi nhôm, nấu kiệt với 2 - 3 lần nước. Lọc. Hòa 125g đường. Cô thành cao lỏng. Mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần 15 - 30g.
| Trám trắng |
- Chữa hóc xương: Hạt trám trắng hoặc trám đen đốt tồn tính, tán bột. Mỗi lần uống 6 - 12g với bột rễ đậu ván trắng (liều lượng bằng nhau). Ngày dùng 2 - 3 lần. Có người lại dùng nước ép quả trám tươi uống cũng thấy có tác dụng. Kết hợp lấy lá hẹ giãn nát, trộn với lòng trắng trứng đắp ngoài.
- Chữa lưỡi trắng: Hạt trám đen, nướng cháy, tán bột, đặt lên một con dao, hơ lửa cho dầu chảy ra, rồi bôi.
- Chữa dị ứng do sơn ăn: Vỏ thân cây trám, thái nhỏ, nấu nước tắm.
- Chữa nứt nẻ kẽ chân, gót chân: Hạt trám đốt thành than, tán nhỏ, trộn với dầu. Bôi hàng ngày.
Ở nhiều nơi, người ta còn dùng hạt trám, hạt gấc và vỏ quả mướp, đốt thành than, tán bột mịn, hòa với mỡ lợn, bôi chữa tràng nhạc.
Theo tài liệu nước ngoài, quả trám trắng còn xanh được dùng làm thuốc chống độc, làm săn, bổ dạ dày; quả chín có tác dụng an thần.