...9 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi đại đội xe tăng chúng tôi bắn cháy chiếc xe M48 của địch trên cầu Sài Gòn, toàn đơn vị quyết định vượt cầu nhằm hướng Dinh Ðộc Lập lao tới.
Thú thật lúc này tôi cũng chưa biết Dinh Ðộc Lập nằm ở đâu. Tôi nhớ lại trước đó, tại khu tập kết chiến dịch trong rừng cao-su miền Ðông, Chính ủy Lữ đoàn Bùi Văn Tùng giao nhiệm vụ cho chúng tôi trên bản đồ du lịch Sài Gòn, và dặn thêm: "Qua cầu Thị Nghè, đến ngã tư thứ tư thì rẽ trái chạy thẳng sẽ tới Dinh Ðộc Lập".
Vượt qua cầu Sài Gòn, càng vào sâu, thành phố trong chiến tranh vắng ngắt, chỉ còn tiếng nổ ầm ầm của xe tăng chúng tôi. Những ngôi nhà lúp xúp chen lẫn những ngôi nhà cao tầng đều đóng cửa im ỉm như nín thở chờ chiến tranh đi qua.
Chúng tôi tập trung cao độ quan sát từng góc chết của các khu nhà, những con hẻm, ngách phố. Ngồi trong xe tăng như trong lò ấp trứng, mồ hôi ai cũng túa ra ướt đẫm cả áo quần.
Ðến ngã tư Hàng Sanh, xe tôi rẽ trái. Ði trước là một xe của đại đội 3 do đồng chí Hùng làm trưởng xe. Tôi phát hiện hai xe M41 của địch ở phía trước trên cầu, chưa kịp xử lý tình huống thì một quầng lửa trùm lên xe của Hùng. Xe đại đội 3 bốc cháy, Hùng bị thương. Pháo thủ xe tôi đã kịp thời nổ súng bắn cháy cả hai xe M41 của địch ngay tại cầu. Sau này tôi mới biết, đây là cầu Thị Nghè. Sau khi đưa Hùng và các thành viên trong xe bị thương vào nhà dân gửi tạm, tôi ra lệnh cho xe tăng tiến. Chúng tôi đến trước một công viên sở thú, tôi không biết mình đã vượt qua bao nhiêu ngã ba, ngã tư. Tôi ra lệnh dừng xe, đứng dưới lòng đường. Từ phía trước, một phụ nữ đi xe máy lao tới. Tôi ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng chiếc xe vẫn lao đi như không biết đến cử chỉ của tôi. Trong óc tôi thoáng nghĩ nhanh đây là cơ hội hiếm hoi. Ngón tay cái tôi hạ phanh chốt an toàn nổ ba phát chỉ thiên. Như đoán được thái độ kiên quyết của tôi, chiếc xe máy phanh gấp chững lại. Trước mắt tôi, một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mặt mày tái mét. Tôi chuyển giọng ân cần, đề nghị:
- Chị chỉ hộ tôi đường vào Dinh Ðộc Lập.
- Tôi chỉ xong ông cho tôi đi chứ? - Người phụ nữ vừa nói vừa run.
- Vâng, xong việc, chị hoàn toàn tự do - Tôi khẳng khái.
- Ông đang đứng trước Dinh Ðộc Lập đó - chị nói mà không dám chỉ tay - nó bên trong rừng cây này.
Suốt chặng đường tiến vào Dinh Ðộc Lập, xe tăng 843 do tôi trực tiếp làm trưởng xe luôn dẫn đầu, tiếp sau là xe 390 của Chính trị viên đại đội Vũ Ðăng Toàn. Xe tăng 843 tiến đến trước hàng rào Dinh Ðộc Lập húc thẳng vào cổng phụ ngay bên cạnh cổng chính, xe dừng lại. Ngay sau đó xe 390 xông lên húc đổ cổng chính Dinh Ðộc Lập. Cánh cổng sắt bung ra, xe tôi cũng lao vào bên trong sân trước. Trong Dinh Ðộc Lập vẫn không thấy có sự phản ứng gì.
Nhớ đến nhiệm vụ mà Chính ủy Lữ đoàn đã giao là đơn vị nào vào trước có quyền cắm cờ và bắt nội các Dương Văn Minh, tôi liền giao lại quyền chỉ huy xe cho đồng chí Thái Bá Minh (là pháo thủ). Tôi rút cần ăng-ten của xe, trên có lá cờ giải phóng, lá cờ đã theo xe tôi trong suốt chiến dịch, lập nên bao chiến công oanh liệt. Tôi chỉ kịp nói với các đồng đội trên xe: "Nếu 10 phút nữa không thấy tôi ở cột cờ thì còn một viên đạn nữa bắn nốt vào Dinh". Tay phải tôi cầm lá cờ quấn vào cần ăng-ten chạy thẳng vào Dinh Ðộc Lập. Lên đến cầu thang, tôi mới cảm thấy lạnh sườn, đi có một mình, trong tay không có vũ khí. Lúc này, lựu đạn, súng ngắn, AK tôi đều để lại trên xe. Nhưng để chớp thời cơ, tôi lao thẳng lên tầng 2. Một nhân viên của ngụy quyền Sài Gòn ra mở cửa, tôi nắm chắc lấy tay y, nói gấp:
- Cho gặp Dương Văn Minh ngay.
- Vâng, vâng... để tôi vào báo Tổng thống - giọng y run run.
Một lát sau, Dương Văn Minh ra, tôi nghĩ, túm lấy tay này là chắc nhất. Tôi dùng sức mạnh bình sinh nắm lấy cổ tay ông ta, quát to "Dẫn lên cột cờ ngay", vừa để trấn áp viên Tổng thống vừa để trấn an mình, bởi lúc đó, tôi chỉ là một thanh niên, một Ðại đội trưởng xe tăng, tay không lọt vào sào huyệt của kẻ thù. Tôi nghe Dương Văn Minh nói tiếng được tiếng không về bàn giao chính phủ gì gì đấy. Tôi không quan tâm mà tiếp tục đề nghị dẫn tôi lên cột cờ ngay. Dương Văn Minh gọi người nhân viên gặp tôi lúc trước dẫn tôi lên cột cờ.
Cánh cửa thang máy vừa mở ra, tôi lao thẳng đến cột cờ, kéo dây hạ cờ ba xọc xuống. Do buộc quá chặt, cứ khoảng 20 cm lại có một móc sắt, tôi lần gỡ được hai móc, sốt ruột quá liền đưa răng vào cắn mép trên xé rách lá cờ. Tôi rút cờ Giải phóng ở cần ăng-ten ra buộc vào, kéo lên. Lá cờ giải phóng bay phần phật trên nóc Dinh Ðộc Lập trong bầu trời ngập nắng của thành phố Sài Gòn. Tôi hạ cờ xuống, lấy bút máy Trường Sơn mang theo ghi vào góc dưới lá cờ dòng chữ: "11h30' ngày 30/4/75", bên dưới ghi thêm chữ Thận rồi lại kéo lá cờ lên. Tôi vo tròn lá cờ ngụy lại, đem xuống nhét vào hòm kính xe tăng. Sau này giao lại cho cán bộ bảo tàng nhà nước.
Tôi thấy lúc này trong Dinh Ðộc Lập, ngoài đường phố, bộ đội, nhân dân, cả rừng người, rừng cờ, rừng hoa đang hân hoan đón chào chiến thắng. Một thoáng buồn xâm chiếm cõi lòng, tôi nghĩ đến những đồng đội của tôi cách đây mấy giờ vừa ngã xuống trước cầu Sài Gòn. Những đồng đội còn nằm lại nơi rừng xanh núi đỏ để cho tôi được sống đến ngày nay. Việc cắm cờ trên Dinh Ðộc Lập tôi không làm thì đồng đội, đồng bào của tôi sẽ làm. Trong giờ phút linh thiêng này, tôi lại nhớ về quê hương nơi tôi đã sinh ra và lớn lên, đó là mảnh đất vùng duyên hải Thái Bình ngày đêm ì ầm tiếng sóng biển xô bờ.
Ðại tá BÙI QUANG THẬN
(Trích trong cuốn "Binh đoàn Hương Giang - Dấu chân thần tốc",
NXB QÐND 2003)