Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Năm ông 16 tuổi, Hà Nội đỏ lửa trong những ngày “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, ông tham gia cùng quân và dân Thủ đô chiến đấu ghìm chân địch trong nội thành, phá vòng vây của chúng để bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân sơ tán lên căn cứ địa cách mạng an toàn. Lên Việt Bắc ông trở thành bộ đội kháng chiến “chính quy”. Sau khi đại đoàn 308, sau này là Đại Đoàn quân Tiên phong – đại đoàn bộ binh chủ lực đầu tiên của quân đội ta được thành lập tại thị trấn Đồn Du, huyện Phú Lương, Thái Nguyên, ông được biên chế về đại đoàn và giữ cương vị Chính trị viên đại đội.
Trong 8 năm kháng chiến, Đại đoàn 308 của ông đã tham gia 13 chiến dịch, trong đó có những chiến dịch hết sức quan trọng như chiến dịch Biên giới năm 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Năm 1949 ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308. Sau khi về tiếp quản Thủ đô, ông về công tác tại Tổng cục Chính trị và tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân Đội.
Nhớ về một thời đánh giặc hào hùng ông kể. “Đại đoàn 308 của tôi thời kì đó hầu hết là anh em người Hà Nội. Năm 1954, Đại đoàn 308 lại vinh dự về tiếp quản Thủ đô. Khi người dân đón đoàn quân chiến thắng trở về trong không khí hào hùng cờ hoa kèn trống thì mỗi người lính trong Đại đoàn đều cảm nhận được sự tự hào và vẻ vang. Quần chúng đón từ ngoài ngoại ô vào đến tận Bờ Hồ. Khi đó, tôi đã giữ chức vụ Chính trị viên Tiểu đoàn 367. Đơn vị hành quân về đến cầu Long Biên thì gặp đúng lúc tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội cũng đi qua cầu này. Cách nhau một đường ray xe lửa, hướng bên này là quân ta rạo rực khí thế chiến thắng tiến vào tiếp quản Thủ đô, bên kia là đoàn quân bại trận đang ủ rũ và rệu rã rút lui.”
Những ngày đầu lên Việt Bắc chiến đấu, sau mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch ông đều có sáng tác và tác phẩm của ông được đồng chí, đồng đội yêu mến. Ngày đó những người vừa cầm súng vừa cầm bút như ông không nhiều chỉ điểm được trên đầu ngón tay như Anh Đức, Quang Sáng, Phan Tứ... Nếu chỉ cầm bút và theo chân các cánh quân đánh đồn địch, những người như ông cũng có thể viết nên những tác phẩm của riêng mình. Nhưng với ông những tác phẩm đó chỉ là minh họa trận đánh, con người chưa thực, chưa sát và sống động.
Điều đó cũng có nghĩa rằng tác phẩm không có sức lay động đến những người lính trực tiếp cầm súng trên chiến trường. Chính vì vậy ông quan niệm mỗi một tác phẩm ông viết ra đều thấm đẫm mồ hôi xương máu của đồng chí, đồng đội và bản thân ông không chỉ là người trực tiếp chỉ huy, tổ chức cho bộ đội chiến đấu mà cũng luôn phải là người cầm súng tiên phong trên mũi tiến công kẻ thù. Ông bảo rằng khi đó cứ đặt bút là viết không muốn rời vì mọi thứ vẫn nóng hổi, hiển hiện ra đó. Ngồi viết mà tai vẫn ù ù vì bắn đạn B40, vẫn còn đó dòng máu nóng của người đồng đội bị thương vương trên vạt áo.
Sau này khi ông nhận nhiệm vụ tham gia xuất bản tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông cùng những đồng chí của mình vẫn không ngừng nghỉ hành quân vào các chiến trường, sát cánh cùng bộ đội chiến đấu để viết lên những tác phẩm kịp thời động viên cổ vũ cán bộ chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu. Ngày đó ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, trụ sở của Tạp chí thường được đón những vị khách quý là lãnh đạo Bộ Quốc phòng như đồng chí Lê Trưởng, Hoàng Văn Thái… đó là những con người rất yêu văn nghệ. Nhờ có những con người như thế động viên, khích lệ mà những người làm Tạp chí càng hăng say sáng tác, viết say sưa, viết không bị mặc cảm vì cấp trên đã hiểu và quý trọng công việc của mình.
Ông bảo rằng thời của ông không có vị tướng nào trong quân đội lại không yêu, không coi trọng văn nghệ, văn học. Có thể họ (các vị tướng) không hiểu thật sâu sắc về các tác phẩm văn học nhưng họ biết rằng văn nghệ, văn học đang góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc ngoại xâm. Cũng chính vì vậy mà những người làm văn nghệ như ông luôn được yêu mến, được nhiều ưu tiên trong công tác. Điều đó là một truyền thống đáng quý mà chỉ ở Quân đội nhân dân Việt Nam mới có được. Ông nói: “Quân đội ta có nền tảng từ một dân tộc yêu văn chương, yêu chữ nghĩa, cho nên những vị tướng dù không học cao nhưng tâm hồn yêu văn nghệ. Tôi cho rằng quân đội Việt Nam có đặc điểm quan trọng là quân đội anh hùng nhưng cũng rất yêu văn nghệ mà không có quân đội nào có được”.