Việc khai thác tài nguyên quá mức, không được kiểm soát tại đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần làm khu vực trù phú này bị tổn thương nghiêm trọng, trong đó có tình trạng sụt lún, sạt lở đất.
Sụt lún đất gấp ba lần mực nước biển dâng
Số liệu đo đạc của Bộ Tài nguyên và Môi trường ở 287 mốc chuẩn quan trắc của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong hơn 10 năm gần đây cho thấy, tốc độ sụt lún đất trung bình là 0,96 cm/năm, trong khi nước biển dâng chỉ 0,35 cm/năm. Kết quả này cho thấy, tốc độ sụt lún đất nhanh hơn gấp ba lần so với mực nước biển dâng.
Riêng kết quả quan trắc sụt lún tại các mốc chuẩn độ cao tại 4 địa phương gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, Bến Tre trong hơn 10 năm gần đây cho thấy, tốc độ sụt lún trung bình là hơn 10 cm, trong đó Cần Thơ sụt lún nghiêm trọng nhất (15,49 cm), với tốc độ trung bình 1,31 cm/năm, thấp nhất là Bến Tre (0,55 cm/năm).
Sụt lún đất gây ra sạt lở bờ sông, bờ biển vào mùa khô, ngập lụt đô thị vào mùa mưa ở hầu hết đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo thống kê, toàn vùng có 562 điểm sạt lở bờ sông, bờ biển với chiều dài 786 km, trong đó có 42 điểm sạt lở nguy hiểm với chiều dài gần 150 km. Chỉ riêng tỉnh Cà Mau mỗi năm sạt lở làm mất hơn 500 ha đất. Thành phố Cần Thơ, tỉnh Ðồng Tháp mỗi năm mất hàng chục héc-ta đất ở các cù lao, bãi bồi trên sông Tiền, sông Hậu, chưa kể khiến hàng trăm ngôi nhà của người dân bị thiệt hại. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới vào năm 2019, ngập lụt đô thị Cần Thơ gây thiệt hại gần 650 USD/gia đình/năm, tương đương 11% thu nhập trung bình của hộ gia đình.
Ðiều đáng lo ngại là tốc độ sụt lún đất vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nhanh hơn. Năm 2019, các kết quả khảo sát ghi nhận, tốc độ sụt lún ở một số nơi của vùng đồng bằng sông Cửu Long lên đến 5,74 cm/năm, cao từ 3-4 lần, có nơi hơn 10 lần mực nước biển dâng. Ðiều này cho thấy, đồng bằng sông Cửu Long chìm dần chủ yếu là do sụt lún đất, còn tác động của nước biển dâng rất ít. Nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, phần lớn diện tích của đồng bằng sông Cửu Long sẽ nằm dưới mực nước biển vào cuối thế kỷ 21.
Theo các kết quả quan trắc của cơ quan chức năng, nghiên cứu của các nhà khoa học, sụt lún có nhiều nguyên nhân cả tự nhiên và nhân tạo, nhưng trong các tác nhân do con người gây ra, việc khai thác nước ngầm quá mức được xem là nguyên nhân chính. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm nhiễm mặn ngày càng gia tăng ở sông Mê Công cũng là nguyên nhân làm giảm nguồn nước ngọt dưới bề mặt. Cứ mỗi mét khối nước ngọt được khai thác từ các tầng chứa nước làm cho 13 m3 nước ngọt dự trữ bị mất đi do xâm nhập mặn tự nhiên và bị hòa lẫn nước lợ ngầm. Ðiều này làm cho xâm nhập mặn lấn sâu vào đất liền vào mùa khô qua các cửa sông, gây khó khăn đến đời sống, sản xuất của cư dân vùng, nhất là các tỉnh ven biển thường thiếu nước ngọt sinh hoạt, sản xuất.
Ngoài ra, do tác động của các đập chặn dòng ở thượng nguồn sông Mê Công làm cho lượng nước đổ về vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long ngày càng ít đi dẫn đến lượng phù sa bồi lắng quá nhỏ so với tốc độ sụt lún; tình trạng khai thác cát sông thiếu kiểm soát cũng góp phần dẫn đến sụt lún, sạt lở đất ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nhanh hơn, càng làm cho đồng bằng dễ bị tổn thương.
Cấp bách ứng phó
Theo Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường), việc khai thác nước ngầm vùng đồng bằng sông Cửu Long gia tăng kèm với tốc độ phát triển kinh tế, gia tăng dân số vùng từ hơn 30 năm trước. Hiện nay, đồng bằng sông Cửu Long khai thác hơn 2,5 triệu m3/ngày, trong đó 40% phục vụ cho sinh hoạt, 40% phục vụ sản xuất nông nghiệp và 20% phục vụ sản xuất công nghiệp.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 2 triệu giếng khoan, với 550 nghìn giếng khai thác nước tập trung, khoảng 80% số người dân nông thôn sử dụng nước ngầm cho sinh hoạt kết hợp sản xuất do hệ nguồn nước mặt ở các sông ngòi, kênh rạch bị ô nhiễm do quá trình sản xuất nông nghiệp.
Nước sinh hoạt ở các đô thị ven biển các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang đều sử dụng nước ngầm phục vụ sinh hoạt với những giếng khoan tập trung khai thác công suất lớn, làm nguồn nước dần cạn kiệt, chất lượng suy giảm. Mực nước ngầm ở hầu hết các tầng chứa nước đều giảm trung bình từ 20-40 cm/năm và hiện mực nước ngầm vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 12-15 m so với năm 1995. Ðiều này làm tốc độ sụt lún đất toàn vùng diễn ra nhanh hơn, phức tạp hơn.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu sinh thái độc lập đồng bằng sông Cửu Long khẳng định: Tác động của khai thác nước ngầm quá mức dẫn đến sụt lún đất đã rõ. Vì vậy để hạn chế tình trạng này, trước mắt cần phải quản lý việc khai thác nước ngầm, sử dụng nước hiệu quả để hạn chế tình trạng sụt lún đất. Về lâu dài, cơ quan chức năng, chính quyền các cấp tăng cường sử dụng nước mặt ở các sông, kênh rạch để thay thế sử dụng nước ngầm.
Ðể làm được điều này cần nhanh chóng chuyển hướng nền sản xuất nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ, giảm thâm canh, lúa vụ ba, áp dụng các biện pháp sản xuất sạch, an toàn, chú trọng chất lượng hơn số lượng để giảm bớt phân bón, thuốc trừ sâu thải vào nguồn nước nhằm khôi phục dần chất lượng nguồn nước mặt ở các sông để người dân có thể sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất như hàng chục năm trước.
Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Chính phủ, các bộ, ngành đầu tư nhiều công trình giao thông, thủy lợi phục vụ sản xuất, đời sống cư dân vùng; nền sản xuất nông nghiệp dần chuyển hướng thích ứng điều kiện tự nhiên, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, Bộ Xây dựng đang thực hiện dự án tích hợp nước an toàn cho các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long từ nguồn vốn vay 400 triệu USD của Ngân hàng thế giới. Dự án này sử dụng nước sông Tiền, sông Hậu xây dựng các nhà máy cấp nước tập trung công suất từ 100-400 nghìn m3/ngày đêm để cấp nước cho toàn vùng. Tuy nhiên, hơn 4 năm thực hiện, dự án đang trong quá trình quy hoạch, lấy ý kiến các chuyên gia, chính quyền địa phương là chậm so với tính cấp thiết về nước sinh hoạt, sản xuất của người dân trong vùng.
Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau Nguyễn Tiến Hải kiến nghị: Vừa qua, Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, trong đó có quy hoạch cấp nước cho toàn vùng. Trên cơ sở quy hoạch này, Chính phủ, các bộ, ngành cần ưu tiên đầu tư và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cấp nước sử dụng nguồn nước mặt các sông lớn nhằm hạn chế khai thác nước ngầm, giảm tình trạng sụt lún, sạt lở đất. Bên cạnh xây dựng các nhà máy nước tập trung, cần đầu tư các nhà máy nước phân tán ở các đô thị nhằm giảm chi phí và bảo đảm an ninh nguồn nước đề phòng khi có sự cố xảy ra.
Dưới góc độ chuyên môn, PGS, TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, Trường đại học Cần Thơ đề xuất: Ðể đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, về lâu dài, các địa phương có kế hoạch sử dụng tài nguyên nước ngọt một cách hợp lý; thực hiện việc trữ nước ngọt vào mùa mưa tại vùng trũng như ở vùng tứ giác Long Xuyên, vùng Ðồng Tháp Mười để sử dụng vào mùa khô nhằm hạn chế sử dụng nước ngầm chứ không nên xả nguồn nước ngọt này (ngày càng ít) ra biển để kiểm soát lũ vì điều kiện tự nhiên đã thay đổi.
Các địa phương trong vùng cần đánh giá lại tính hiệu quả về kinh tế-xã hội các dự án thủy lợi trữ ngọt, ngăn mặn đang triển khai trong vùng vì nó trái với điều kiện tự nhiên, dễ gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Cơ quan chức năng cần nghiên cứu, đánh giá khoa học trữ lượng, chất lượng nước ngầm của vùng để có kế hoạch bảo vệ, sử dụng hiệu quả. Vùng đồng bằng sông Cửu Long xác định là vùng nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước, vì thế không nên phát triển công nghiệp sử dụng nhiều đến nguồn nước như: Nhiệt điện, sản xuất thép, chế tạo giấy… sẽ làm cạn kiệt, suy giảm chất lượng nguồn nước.
Bài và ảnh: THANH TÂM