Cơ hội rộng mở cho thí sinh khối D
Bộ GD-ĐT đã thống nhất với đề nghị của ba trường ĐH cho tuyển sinh khối D với những ngành học có truyền thống tuyển sinh khối A.
Cụ thể, đó là ngành Khoa học Máy tính của trường ĐH Ngoại ngữ Thanh Xuân (Hà Nội), ngành Công nghệ thông tin của trường ĐH Bán công Tôn Đức Thắng và trường ĐHDL Văn Lang (TP Hồ Chí Minh).
Xu hướng tuyển sinh khối D đã được nhiều trường ĐH, đặc biệt là các trường đào tạo nhóm ngành Kinh tế đề xuất từ một vài năm nay.
Ông Đỗ Duy Dự, thành viên ban chỉ đạo tuyển sinh ĐH, CĐ 2004 cho biết, nhiều khả năng trong năm tới, 2006, các trường đào tạo ngành Quản trị kinh doanh, hay một số chuyên ngành Kinh tế lâu nay vẫn chỉ tuyển sinh theo khối A sẽ mở rộng sang tuyển cả khối D. Các trường đào tạo ngành Công nghệ thông tin cũng sẽ theo xu hướng này.
Ngành Báo chí của Phân viện Báo chí tuyên truyền từ năm 2004 đã tuyển sinh thêm khối D. Phó Giám đốc Phân viện Hoàng Đình Cúc cho hay, những thí sinh khối D trúng tuyển học khá tốt, và trường sẽ duy trì tuyển sinh khối này.
Ngoài khối "truyền thống" như A hoặc C, nhiều trường ĐH gần đây đã mở rộng phạm vi tuyển sinh tới cả khối B.
Năm 2004, nhóm ngành có điểm chuẩn cao, từ 20 (chưa nhân hệ số) trở lên chủ yếu rơi vào các trường ĐH phía bắc. Cụ thể là các ngành của trường ĐH Sư phạm Hà Nội, ngành SP Ngữ văn: 20; SP Lịch sử: 20,5.
Các ngành của trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn (thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội): Triết học: 20, Văn học: 20,5, Ngôn ngữ: 20,5, Lịch sử: 20,5; Báo chí: 20,5; Lưu trữ và quản trị văn phòng: 20; Đông phương học: 20,5; Quốc tế học; 20,5; Du lịch: 20. Ngành Luật kinh doanh (Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội): 21,5; Còn tại Khoa Kinh tế: Kinh tế chính trị: 24,5; Kinh tế đối ngoại: 23; Quản trị kinh doanh: 23; Tài chính ngân hàng: 21,5. Tại trường ĐH Công đoàn, ngành Công tác Xã hội cũng lấy điểm chuẩn tới 20,5.
Một số ngành hiếm hoi có mức điểm chuẩn dưới 20 còn lại, gồm SP giáo dục chính trị có điểm chuẩn là 18; hay tại trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn: Tâm lý học: 19; Quản lý xã hội: khối D: 19; Xã hội học: 18,5; Thông tin- thư viện:19, Hán Nôm:18,5.
Ngành Quản trị Kinh doanh của ĐH Công đoàn: 17,5; các ngành Quản trị Du lịch - Khách sạn; Hướng dẫn du lịch; Tiếng Anh của Viện ĐH Mở Hà Nội, lấy điểm từ 20 (đã nhân hệ số môn tiếng Anh)...
Trong khi đó, tại trường ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh, ngành Giáo dục Chính trị khối C, D đều là 16,5; Tâm lý giáo dục khối C, D1 đều 17,5; Giáo dục tiểu học khối C là 18 trong khi khối D1 là 18,5.
Từ 14 đến 16 là mức điểm trúng tuyển khối D của các trường ĐH dân lập như: Quản lý và Kinh doanh, Thăng Long, Phương Đông, Hải Phòng (phía Bắc). Các trường ĐH bán công và dân lập phía Nam điểm trúng tuyển nguyện vọng 1, xét tuyển NV 2 cũng bằng điểm sàn khối D (14).
Một số trường thí sinh khối D ít ngờ tới cũng tuyển sinh khối này. Chẳng hạn, trường ĐH Nông lâm TP Hồ Chí Minh, năm ngoái, ngành Quản lý thị trường bất động sản, Quản trị Kinh doanh, Kế toán đều có điểm trúng tuyển là 15. Ngành Kinh tế tài nguyên môi trường có điểm chuẩn 14. Riêng ngành Tiếng Anh của trường này, điểm lên tới 21.
Khối A cũng có nhiều cơ hội
Trong các mùa thi ĐH, khối A bao giờ cũng có đông đảo các trường tuyển sinh và chiếm hơn nửa tổng số thí sinh dự thi. Các năm 2003, 2004 xấp xỉ 500.000 lượt thí sinh đăng ký vào khối này. Phổ điểm" ở khối này khá rộng.
Phía bắc: giữ mức ổn định từ 20 trở lên
Tại phía bắc, hầu hết điểm chuẩn các khoa, ngành khối này khá cao. Một điểm đáng lưu ý là có một số trường ĐH "tỷ lệ chọi" không cao (1 chọi 3 hoặc 4) nhưng điểm số vẫn ở hàng top 1.
Tại trường ĐH Bách khoa Hà Nội (Hà Nội), trong hai năm 2003 và 2004, điểm chuẩn khối A đều là 23. Năm ngành điểm thấp hơn cũng tới 22.
So trong hai năm, thì điểm chuẩn của trường Xây dựng năm 2004 thấp hơn một chút so với năm 2003. khối A: 21, khối V: 25. Năm 2003: A 23 V26.
ĐH Giao thông vận tải Hà Nội năm 2004 có điểm chuẩn là 22 trong khi 2003 là 20,5. Năm 2004 nhích lên một chút với 22 ở phía bắc và 15 ở phía nam. Xem xét về số lượng thí sinh đăng ký dự thi thì có thể thấy mặc dù lượng thí sinh dự thi năm 2003 (gần 15.000 lượt) giảm so với 2004 (gần 18.000 lượt) nhưng điểm chuẩn lại cao hơn.
Học viện Tài chính năm 2003 điểm chuẩn là 20, đến năm 2004, điểm chuẩn đã là 22 dù số lượt thí sinh đăng ký dự thi không chênh lệch nhiều (năm 2003 là 5.424 và năm 2004 là 5.830).
Trường ĐH Kinh tế quốc dân năm 2003 lấy điểm chung cho tất cả các ngành là 20,5; sau đó mới phân khoa. Năm 2004, có chỉnh sửa, lấy điểm theo từng ngành ngay từ khi đăng ký và điểm ngành Kế toán cao nhất với 25,5; tiếp đến là Tài chính-Ngân hàng với 22,5 và các ngành khác ở mức 21,5.
Học viện Ngân hàng năm 2004 tiếp nhận lượng thí sinh dự thi tăng đột biến so với năm trước đó (7.943 so với 3.490). Điểm chuẩn vì thế cũng nhích lên năm 2003 phía bắc là 17,5 nam 15,5 thì năm 2004, các điểm tương ứng là
Điểm của Khoa Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà Nội) cũng không "dễ chịu" chút nào, thấp nhất cũng đã là 20.
| Lê Quang Bách, thủ khoa trường Đại học Y Hà Nội năm 2004. |
Cơ sở 2 của các trường phía bắc: Mềm hơn
Có lẽ, trong nhóm các trường thuộc nhóm ngành Kinh tế, một số khoa của trường ĐH Thương mại có điểm "dễ thở" hơn. Năm 2004, ngoài hai ngành Kế toán (21), Kinh tế (20), các ngành còn lại dao động mức điểm từ 16 đến 18,5.
Hầu hết các ngành khối A của trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội) là 20. Tuy nhiên, xem xét kỹ lưỡng một chút, cũng có các ngành: Khí tượng Thủy văn - Hải dương học; Địa kỹ thuật - Địa môi trường lấy điểm 18. Hoặc 2 ngành của trường ĐH Công nghệ: Vật lý kỹ thuật: 19, cơ học kỹ thuật: 18. 18 cũng là điểm trúng tuyển khối A của trường ĐH Nông nghiệp I Hà Nội.
Trường ĐH Thủy lợi lấy điểm theo ngành. Điểm trúng tuyển năm 2004 thấp hơn một chút so với năm 2003 (số lượt thí sinh dự thi năm này cũng giảm nhiều so với năm trước: hơn 5.000 so với gần 9.000). Ngoài ngành được xem là "có giá" nhất của trường là Xây dựng công trình thủy lợi có mức điểm 21,5; các ngành còn lại dao động từ 18 đến 19,5.
Cơ sở 2 của trường ĐH Thủy lợi lại có mức điểm trúng tuyển khá mềm: 15 và 14. "Nam thấp hơn Bắc" cũng là tình trạng của các trường có cơ sở 2 tại TP Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, cơ sở 2 của ĐH Giao thông vận tải lấy 15,5 trong khi điểm ở Hà Nội là 22.
Hay như cơ sở 2 của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, điểm theo ngành: Quản trị kinh doanh: 18,5. Điện tử-Viễn thông: 17; Công nghệ thông tin: 17,5. Trong khi đó, ở cơ sở phía Bắc, điểm chuẩn của các ngành là Kỹ thuật điện tử viễn thông: 23, công nghệ thông tin: 22, quản trị kinh doanh Bưu chính viễn thông: 21,5.
Trường ĐH Mỏ-Địa chất cũng là nơi thí sinh không dám chắc chắn về mức điểm quá cao có thể xem xét được. Năm 2004, trường lấy điểm theo từng ngành, mức điểm dao động từ 15 đến 18.
Xem ra, khối A của trường ĐH Luật Hà Nội "mềm" hơn cả với mức 16,5 của cả 2 năm 2003 và 2004. Cũng là ngành Luật, nhưng là khoa Luật của ĐH Quốc gia Hà Nội, điểm trúng tuyển khối A lại cao hơn với 18 và 18,5.
Phía nam: có nhiều cơ hội cho 16-18
Năm 2004, trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh lấy mức điểm chuẩn là 16,5. Tại ĐH Luật TP Hồ Chí Minh, điểm này là 15,5 (riêng ngành Luật thương mại la 17,5). Các ngành của Khoa Kinh tế (ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh) lấy từ 15 - 18 điểm.
Muốn có nhiều lựa chọn theo ngành kỹ thuật, thí sinh có thể xem xét kỹ lưỡng từng khoa của trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh (thuộc ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Với học lực giỏi, thí sinh có thể mạnh dạn chọn các ngành: CNTT: 21 điểm; Điện-Điện tử: 22,5; Công nghệ Hoá-Thực phẩm: 22; Kỹ thuật Xây dựng: 22,5; Công nghệ Vật liệu: 20,5; Cơ Điện tử: 20; Cơ khí: 19,5.
Chưa tin tưởng hẳn vào năng lực học tập "vượt trội" của mình, thí sinh có thể thử sức ở các khoa: Công nghệ Dệt-May: 17; Kỹ thuật Địa chất: 16; Quản lý Công nghiệp: 17,5; Kỹ thuật Môi trường: 17; Kỹ thuật Giao thông: 17,5; Kỹ thuật Hệ thống Công nghiệp: 18; Trắc địa-Địa chính: 16; Vật liệu và Kỹ thuật Xây dựng: 16,5; Thủy lợi-Thuỷ điện công trình nhỏ: 16; Cơ Kỹ thuật: 17; Công nghệ Sinh học: 18; Vật lý Kỹ thuật: 16.
Cũng cùng ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh, điểm của trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh "đều" hơn ở mức dưới 20 (trừ ngành Công nghệ thông tin và công nghệ sinh học 21 điểm. Đó là: ngành Toán-Tin: 17,5 điểm; Vật lý: 15; CNTT: 21; Hóa: 19,5; Địa chất: 14; Khoa học Môi trường: 18; Khoa học Vật liệu: 16.
Với hệ thống ngành đào tạo phong phú, trường ĐH Nông lâm TP Hồ Chí Minh có mức điểm hợp hơn cả với những thí sinh đắn đo muốn tìm một cơ hội vào ĐH. Điểm chuẩn các ngành của trường chủ yếu là 15. Cũng phổ từ 14 đến 15,5 là điểm chuẩn của hầu hết các ngành của trường ĐH Giao thông vận tải TP Hồ Chí Minh (trừ Xây dựng cầu đường: 20; Cơ khí Ô tô: 18,5 và Điện tử viễn thông: 18).
14 đến 15 cũng là mức điểm trúng tuyển phổ biến của các trường ĐH bán công, dân lập phía Nam.
Đại học vùng, ĐH địa phương
Ngoài hai trung tâm lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, những năm gần đây, thí sinh đã cân nhắc lựa chọn trường ĐH vùng hoặc địa phương, vừa sức với lực học và ở gần gia đình.
Ở các cơ sở đào tạo ĐH này, hầu hết đều có hệ sư phạm hoặc trường ĐH Sư phạm (Vinh, Hồng Đức, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn). Điểm số của hệ sư phạm thông thường cao hơn hẳn hệ cử nhân, hệ kỹ sư,v.v..
Khối B: Phân "tốp" rõ ràng
Sự phân tốp của khối B khá rõ ràng: cao ngất ngưởng ở mức ngoài 20, hoặc bằng hay nhỉnh hơn điểm sàn một chút.
Nhóm ngành Y-Dược, Công nghệ Sinh học, hoá học, các ngành sư phạm khối B khá "kén" thí sinh.
Năm 2004, điểm trúng tuyển của ngành Bác sỹ đa khoa của trường ĐH Y Hà Nội cao ngất ngưởng: 27,5. Có một điều lý thú là khá nhiều thí sinh học giỏi đã thi cả hai khối A và B, trong đó chủ yếu là thi vào trường ĐH Bách khoa Hà Nội và trúng tuyển cảâhi đều với số điểm rất cao. Những thí sinh này đều chọn Bách khoa, dẫn tới khi nhập học, trường ĐH Y Hà Nội thiếu một số chỉ tiêu và đã gọi thêm thí sinh có điểm 27.
Các ngành còn lại của trường Bác sĩ Y học cổ truyền 26,5; Cử nhân Y tế công cộng 25,5; Cử nhân Kỹ thuật Y học; 25 và Cử nhân Điều dưỡng 24,5.
Trong khi đó, ngành Y tế công cộng của trường ĐH Y tế công cộng Hà Nội, điểm trúng tuyển chỉ là 21,5.
Răng Hàm Mặt và Dược sĩ là hai ngành có điểm cao nhất của trường ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh với 25 điểm. Thấp hơn 0,5 điểm là ngành Bác sĩ đa khoa. Tại trường này, có đào tạo hệ cử nhân các ngành mà nhu cầu của ngành y tế đang cần, trong khi điểm "dễ chịu" hơn như: Điều dưỡng 20,5; Xét nghiệm, Kỹ thuật Phục hình Răng: 22,5; Vật lý trị liệu 21,5; Gây mê hồi sức 19,5' Kỹ thuật hình ảnh: 18. Ở TP Hồ Chí Minh còn một cơ sở đào tạo hệ ĐH ngành y, chỉ tiêu ít nhưng điểm chuẩn khá cao, đó là Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế TP Hồ Chí Minh với 25,5 điểm.
Tại trường ĐH Y Khoa Huế, ngành Bác sĩ đa khoa có điểm cao nhất là 25; các ngành thấp hơn là Dược sĩ (23,5) Bác sĩ răng hàm mặt ( 23) Cử nhân điều dưỡng (21) và Cử nhân kỹ thuật y học (20,5).
Ở trường ĐH Y khoa Thái Nguyên, điểm các ngành "nhẹ" hơn một chút với 21,5 của ngành Bác sĩ đa khoa và 17 của ngành Cử nhân Điều dưỡng.
Tại các trường ĐH địa phương, các trường ĐH Y Thái Bình và ĐH Y Hải Phòng đều có điểm trúng tuyển là 23. Điểm chuẩn các ngành của trường ĐH Y Cần Thơ như sau: Ngành Y: 22; Nha khoa: 20,5; Dược: 24; Cử nhân điều dưỡng: 15.
Các ngành có tuyển cả hai khối A, B thì điểm của khối B bao giờ cũng cao hơn khối A.
Chẳng hạn, tại trường ĐH Khoa học tự nhiên (thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội), Khoa học môi trường khối A có điểm là 21 nhưng khối B lên tới 25,5; ngành Địa chính khối A 20, khối B 23,5. Cũng ngành Khoa học Môi trường ở trường ĐH Khoa học Tự nhiên (thuộc ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh) điểm khối A là 18 trong khi điểm khối B là 22,5. Cũng ở trườnng này, ngành Công nghệ Sinh học tuyển khối A với mức điểm 21, còn khối B điểm chuẩn vọt lên tới 24,5.
Nếu muốn học ngành Công nghệ sinh học nhưng điểm "mềm" hơn một chút thì chọn trường ĐH Nông lâm TP Hồ Chí Minh, điểm chuẩn năm 2004 là 21. Đây cũng là ngành có điểm cao nhất của trường này. Thấp hơn một chút, là ngành Chế biến bảo quản nông sản thực phẩm: 20 Công nghệ Hóa học với 19 điểm hoặc Bác sĩ thú y với 18 điểm. Các ngành còn lại dao động từ 15 đến 17 điểm.
Mức điểm 15 và 16 cũng là điểm trúng tuyển vào các ngành khối B của trường ĐH Bán công Tôn Đức Thắng, ĐHDL Kỹ thuật Công nghệ TP Hồ Chí Minh. Đây cũng là mức điểm của nhóm ngành nông lâm các trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên, Huế...Cao hơn cả là mức điểm 19,5 cho các ngành của trường ĐH Nông nghiệp I Hà Nội.
Trường ĐH Thủy sản Nha Trang cũng là địa chỉ mà nhiều thí sinh đăng ký khối B hướng tới. Những năm gần đây, nhu cầu nhân lực trình độ ĐH ngành nuôi trồng thủy sản của các địa phương khá lớn, do đó, điểm chuẩn của ngành Nuôi trồng thủy sản cũng cao nhất với 18 điểm. Ngành công nghệ thực phẩm (16 điểm) và Khai thác thuỷ sản (14,5) thấp hơn.
Khối C: Trường nào ngang sức?
Số lượng trường ĐH chỉ tuyển sinh riêng khối C không nhiều mà hầu hết là các trường tuyển theo nhiều khối. Ở các trường đó, điểm khối C vẫn thường "nhỉnh" hơn cả.
Từ khi có chế độ miễn học phí sư phạm, các ngành Sư phạm khối C bao giờ điểm chuẩn cũng cao chót vót. Có một thực tế là điểm khoa Văn thường cao hơn so với nhiều khoa khác, thế nhưng sinh viên Sư phạm Văn khoa ra trường về địa phương thì tìm kiếm việc làm cũng tương đối khó khăn do nhu cầu giáo viên bộ môn này của bậc THPT các địa phương gần như "bão hòa".
Tương đương hoặc thấp hơn trường Sư phạm một chút là các ngành của trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn (thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội). Năm 2004, các ngành có điểm thấp nhất khối C của trường này là Tâm lý học, Xã hội học, Hán Nôm: 19.
Những ngành "nhỉnh" hơn với điểm xấp xỉ 20, có: Thông tin- thư viện: 20; Quản lý xã hội, Ngôn ngữ, Lưu trữ và quản trị văn phòng: 20,5; Triết học: khối C: 21. Các ngành còn lại: Lịch sử, Văn học, Báo chí (đều 21,5), Đông phương học (22,5); Quốc tế học ( 22) và Du lịch (22,5) là những ngành lấy điểm cao của trường.
Nhìn chung, so với năm 2003, điểm chuẩn các ngành khối C của trường này bằng hoặc cao hơn 1 đến 1,5 điểm.
Cũng các ngành tương tự ở trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (thuộc ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh), điểm chuẩn "dễ chịu" hơn hẳn. Cụ thể, ngành Ngữ văn: 17,5; Báo chí: 18,5; Lịch sử: 16; Nhân học: 17, Triết học: 16; Địa lý khối C: 18; Xã hội học: 17: Thư viện-Thông tin: 15; Lưu trữ học: 15; Đông phương học: 18,5.
Tại trường ĐH Văn hóa, điểm chuẩn các ngành có thấp hơn một chút so với các trường khác tuyển khối C trên địa bàn Hà Nội. Năm 2003, điểm chuẩn các ngành : Quản lý văn hóa 20,5; Bảo tàng: 18; Phát hành sách: 19,5. Năm 2004, điểm cao nhất thuộc về ngành Văn hóa dân tộc với 21; tiếp đến là Thông tin - Thư viện: 20; Phát hành sách: vẫn 18 và Quản lý văn hóa: 17.
Nhiều trường ĐH địa phương bên cạnh ngành sư phạm, còn mở rộng hệ đào tạo cử nhân. Điểm chuẩn của hệ này thường thấp hơn hẳn hệ sư phạm. Những thí sinh chọn thi khối C nhưng khả năng học "tầm tầm" thường "ngắm" đến các hệ này. Một số trường tuyển cả hai hoặc nhiều khối, điểm khối C thường cao hơn cả, và mức điểm tương đối ổn định hai năm liên tục.
Chẳng hạn, tại trường ĐH Công đoàn, trong hai năm 2003 và 2004, điểm của ngành Xã hội học đều ở mức 20,5. Các ngành tuyển khối A, D điểm 15 hoặc 17. Còn trường ĐH Luật Hà Nội, điểm khối C năm 2003 là 21,5; năm 2004 giảm xuống 1 điểm còn 20,5; trong khi điểm khối A cả hai năm là 16,5.
20,5 cũng là điểm trúng tuyển của ngành Luật, khoa Luật (ĐH Quốc gia Hà Nội) cùng năm.
Hiện nay, sau khi tốt nghiệp, lượng SV học Luật hoạt động trong các lĩnh vực tòa án, viện kiểm soát, cơ quan pháp lý khá hiếm hoi, thường là do gia đình có điều kiện và quan hệ. Phần nhiều cử nhân Luật tham gia các hoạt động tư vấn của các văn phòng, công ty.
Một cơ sở đào tạo ĐH có chỉ tiêu "vừa phải" và phổ điểm trúng tuyển của các ngành chênh nhau khá nhiều, đó là Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Tại trường này, có khá nhiều khoa "lạ" đối với thí sinh. Năm 2004, trường này tuyển sinh theo từng chuyên ngành ngay từ đầu, nên có các mức điểm: Chủ nghĩa xã hội khoa học: 17; Lịch sử Đảng: 18,5; Xây dựng Đảng: 20,5; Chuyên ngành công tác tư tưởng: 18; Chính trị học Việt Nam: 17; Quản lý xã hội: 19; Xuất bản: 20; Báo in: 21,5; Báo ảnh: 15,5; Báo phát thanh: 18,5; Báo truyền hình: 21,5. Năm 2003, điểm chuẩn chung của các ngành Báo chí là 24 và ngành xuất bản là 21.
Tại các trường ĐH địa phương, những thí sinh không thực sự xuất sắc của khối C thường "ngắm" tới hệ cử nhân có điểm trúng tuyển "mềm" hơn hệ sư phạm. Học hệ này, thí sinh phải đóng học phí và văn bằng có ghi nhận sự khác biệt đó.
Chẳng hạn, ở trường ĐH Quy Nhơn, ở hệ Sư phạm, điểm chuẩn các ngành là: Ngữ văn: 20; Lịch sử: 20; Địa lý: 20; Giáo dục Chính trị: 18 và Tâm lý Giáo dục: 16; thì ở hệ cử nhân, có 2 ngành Văn học, Lịch sử đều lấy 15.
Hay ở ĐH Vinh cũng vậy. Văn: 21,5; Địa: 23; Giáo dục Chính trị: 19,5; Sử: 22; Giáo dục tiểu học: khối C: 20,5. Đó là điểm chuẩn hệ sư phạm năm 2004. Mức điểm này cao hơn điểm chuẩn năm 2003 từ 1 đến 1,5 điểm. Còn ở hệ cử nhân, năm 2004, các ngành Văn, Sử: 16 điểm có điểm trúng tuyển là 16; trong khi điểm này năm 2003 là 15.