Ðào tạo đi liền với nghiên cứu khoa học
Dù đã hẹn trước, nhưng khi chúng tôi có mặt tại Khoa Nông học Trường đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội (Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội), từ cán bộ lãnh đạo khoa đến nhân viên, người lên lớp, người dự lễ trao bằng tốt nghiệp cuối khóa cho sinh viên. PGS, TS Nguyễn Hồng Minh, Phó Trưởng bộ môn Di truyền học, tiếp chuyện chúng tôi.
Ông cởi mở: Nhiệm vụ của khoa nói chung, bộ môn nói riêng là giảng dạy, đào tạo các lớp sinh viên dài hạn, hệ cao học, nghiên cứu sinh. Nhân lực của bộ môn Di truyền học không nhiều, cho nên người có học vị tiến sĩ và học hàm PGS thâm niên như ông số giờ lên lớp, hướng dẫn luận văn, các hoạt động khác quy đổi, hằng năm thường vượt định mức từ ba đến năm lần. Thời gian rỗi là rất ít, song không thể sao nhãng phương châm gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ đến nông dân và nông thôn. Rời bục giảng lại có mặt ở vườn thực nghiệm, trại giống hoặc đến với bà con nông dân vùng đồng bằng sông Hồng, trung du Bắc Bộ hay vùng cao Bắc Hà (Lào Cai).
Những năm gần đây, Trường đại học Nông nghiệp I đã hoàn thành gần 40 chương trình, đề tài cấp nhà nước, hơn 190 đề tài, chương trình cấp bộ và hàng trăm đề tài, dự án cấp tỉnh và trường. Hơn 30 giống cây trồng do tập thể cán bộ, giáo viên nhà trường chọn, tạo đã được áp dụng trong sản xuất thuộc các vùng sinh thái khác nhau. Nghiên cứu sản xuất một số loại vắc-xin phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi, các biện pháp thâm canh tiết kiệm nước, giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi, công tác bảo quản sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch... đã góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo cho người dân vùng sâu, vùng xa.
Riêng ở bộ môn Di truyền học (Khoa Nông học) đã lai tạo được không ít giống rau quả có khả năng kháng bệnh, chủng loại phong phú có thể trồng nhiều vụ trong năm như các giống cà chua HT7, HT9, HT10, HT42, HT135, HT160, HT203. Nhất là sau gần mười năm nghiên cứu, gắn bó với ruộng đồng cùng người nông dân, giống lúa Việt lai 20 ra đời, trở thành giống lúa đầu tiên của Việt Nam được cấp quyền sở hữu trí tuệ.
Hành trình đi tìm giống lúa "Việt lai 20"
Tranh thủ giờ nghỉ giữa hai ca lên lớp, PGS, TS Nguyễn Văn Hoan, Trưởng bộ môn Di truyền học, sôi nổi trao đổi ý kiến với chúng tôi. Nhớ lại cách đây mười năm, trong một cuộc hội nghị đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp ở Bắc Ninh, không ít chủ nhiệm hợp tác xã bộc lộ ước mong làm sao có được giống lúa lai Việt Nam ngắn ngày, cơm ngon, có sức chống chịu sâu bệnh, đạt năng suất cao nhưng trong nửa năm có thể làm được hai vụ.
Mỗi lần lên Bát Xát (Bắc Hà, Lào Cai) công tác chúng tôi thấy đồng bào dân tộc thiểu số gò lưng gùi từng bó củi vượt suối đèo ra chợ bán, ghé quán hàng ăn đồng quà, mua thêm chai dầu lửa thắp sáng là sạch túi. Trong khi bao lâu nay, rừng vẫn bị chặt phá mà lúa thì bà con cứ gieo trồng giống dài ngày, năng suất thấp.
Hằng năm Nhà nước vẫn phải đầu tư 200 - 300 tỷ đồng để nhập lúa lai của nước ngoài, lại bị động về giá và chất lượng. Ước mơ của người nông dân thật giản dị, chính đáng nhưng nào phải một sớm một chiều có thể thực hiện được. Hai, ba năm gần đây, các công ty giống cây trồng trong nước đã sản xuất được một số hạt giống lúa lai, nhưng chủng loại lai mà ta sản xuất được hạt lai F1 vẫn còn nghèo nàn, thiếu các giống lúa ngắn ngày cho cơ cấu 3 - 4 vụ/năm.
Người nông dân chỉ yên tâm một khi chúng ta chọn tạo được các tổ hợp lai, chủ động sản xuất hạt giống bố mẹ (đỡ phải nhập khẩu), có thời gian sinh trưởng ngắn ngày, cộng với thời tiết mưa thuận gió hòa có thể bố trí gieo cấy vào vụ xuân cực muộn hoặc vụ mùa cực sớm.
Ấp ủ dự định từ đầu những năm 90, nhưng đến năm 1995, PGS, TS Nguyễn Văn Hoan, thông qua bạn bè, mới có một số ít hạt lai F1 của nước ngoài (có chứa gien bất dục). Bằng phương pháp phân ly, rồi dùng gien này lai với ÐH 60, trải qua các công đoạn khác nhau, trong điều kiện nhiệt độ thích hợp đã tạo ra dòng bất dục kiểu TGMS-103s.
Từ phòng thí nghiệm, kết hợp gieo trồng khảo nghiệm trên đồng đất một số địa phương ở Hải Phòng, Phú Thọ, Thanh Hóa, Lào Cai, Hà Tây, Nghệ An có sự đối chứng với giống lúa Shan ưu, Bồi tạp sơn thanh, bốn năm liền gặp nhiều khó khăn nhưng chủ nhiệm đề tài PGS, TS Nguyễn Văn Hoan không nản chí. Khắc phục sự eo hẹp về thời gian bằng cách sử dụng thời gian nghỉ hè, nghỉ Tết và cả các ngày nghỉ cuối tuần trong năm để đi thực địa, vào phòng thí nghiệm. Thiếu kinh phí (nhất là từ năm 2000 về trước) thì bỏ tiền túi hoặc vay mượn của anh em, đồng nghiệp. Bàn chân nhà khoa học tưởng chỉ quen đứng trên bục giảng, ai dè cứ phăm phăm trên đồng ruộng Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Giang, nằm lán ngủ rừng hàng tuần ở Bắc Hà, Si Ma Cai, để tìm ra giống lúa lai hai dòng mang gien bất dục.
Trải qua khảo nghiệm, đối chứng các tổ hợp, PGS, TS Hoan cùng các cộng sự đã tìm ra tổ hợp 103s x R20, một tổ hợp tỏ ra có nhiều ưu thế mà sau đó được đặt tên là Việt lai 20. Phân tích những đặc điểm hơn hẳn của giống Việt lai 20, ông cho biết: Thời gian sinh trưởng của lúa chỉ 90 - 92 ngày (vụ mùa) và 114 - 117 ngày (vụ xuân), năng suất thường đạt 65 - 70 tạ/ha/vụ mùa, 75 - 80 tạ/ha/vụ xuân.
Cái hay của Việt lai 20 là có thể gieo cấy trên diện rộng ở vụ xuân muộn và làm sớm ở vụ mùa, có phẩm chất cơm ngon (hàm lượng prô-tê-in đạt 10,5 - 10,7%). Công nghệ hoàn thiện thuận lợi cho chuyển giao, bao gồm biện pháp làm thuần và duy trì bố mẹ, dòng mẹ có độ thuần hơn 99%, năng suất đạt hơn 45 tạ/ha; còn năng suất dòng bố đạt 65 tạ/ha. Công nghệ sản xuất hạt lai F1 thường đạt 50 - 60 tạ/ha, độ thuần của hạt lai F1 đạt hơn 99%. Ðiều quan trọng là giống lúa Việt lai 20 có khả năng chống chịu sâu bệnh, nhất là kháng bạc lá.
Vậy là sau tám, chín năm vừa giảng dạy, đào tạo các thế hệ sinh viên, PGS, TS Nguyễn Văn Hoan vẫn kiên trì, say mê đề tài nghiên cứu khoa học đã chọn. Trí tuệ, tâm sức của ông bỏ ra đã được đền đáp. Giống lúa lai hai dòng có tên Việt lai 20 đã nhanh chóng được nông dân từ vùng đồng bằng Hà Tây, Hưng Yên, đến địa bàn trung du, miền núi Bắc Giang, Thanh Hóa, Phú Thọ, Lào Cai đón nhận.
Hệ thống sản xuất hạt giống được thiết lập trên cơ sở hợp tác chặt chẽ giữa bộ môn Di truyền học Ðại học Nông nghiệp I Hà Nội với các công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Hải Phòng, Trung tâm giống Lào Cai và một số đơn vị khác đã cung ứng giống cho nông dân gieo trồng, trong một thời gian ngắn lên hàng chục nghìn ha lúa Việt lai 20.
Các kỹ sư Lương Ðức Hòa, Giám đốc Trung tâm giống Lào Cai; Bùi Văn Hòa, Trưởng trạm giống cây trồng huyện Yên Thành (Nghệ An); Lê Ngọc Chiến, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hóa đều có những đánh giá về ưu thế hơn hẳn của Việt lai 20 so với các giống lúa đối chứng.
Một chủ nhiệm hợp tác xã ở huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) phấn khởi cho biết: Cấy giống Việt lai 20, chúng tôi thu hoạch sớm hơn một tháng đã đành, sản lượng lúa cũng cho cao hơn giống cũ, cho nên bà con nông dân có thể bố trí làm ba, bốn vụ trong năm. Cứ đà này cánh đồng vùng trồng lúa của chúng tôi khả năng vượt 50 triệu đồng/ha.
Và thật bất ngờ, năm 2004, Việt lai 20 được công nhận là giống lúa lai quốc gia đầu tiên và được cấp bằng sở hữu trí tuệ. Cũng lần đầu trong lịch sử khoa học và công nghệ nước nhà, PGS, TS Nguyễn Văn Hoan bán bản quyền lúa lai hai dòng ngắn ngày này cho Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Hải Phòng với trị giá 300 triệu đồng (bằng 50% số tiền bỏ ra thực hiện đề tài).
Thấy được ý nghĩa khoa học và giá trị kinh tế của Việt lai 20, tháng 9 vừa qua, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký quyết định và đầu tư hàng chục tỷ đồng thành lập Viện Nghiên cứu Lúa (thuộc Ðại học Nông nghiệp I Hà Nội). PGS, TS Hoan cho biết, tiếp tục thành công của giống Việt lai 20, ông và các cộng sự đang xây dựng kế hoạch từ nay đến năm 2010, nghiên cứu để cho "ra lò" thêm ba, bốn tổ hợp lúa lai mới có chất lượng; mà trước mắt phấn đấu cuối năm nay đưa giống lúa Việt lai 24 qua khảo nghiệm, trồng thử ở 63 điểm thuộc các địa phương khác nhau, được công nhận khu vực hóa.
Trò chuyện cùng PGS, TS Nguyễn Văn Hoan trong khoảng thời gian không nhiều, nhưng qua những lời bộc bạch, cởi mở của ông, chúng tôi hiểu thêm rằng các trường đại học không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ giảng dạy, đào tạo mà ở đó còn có nhiều nhà khoa học coi trọng đầu tư cho nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Song, mọi đề tài dù lớn hay nhỏ, muốn có hiệu quả phải xuất phát từ đời sống thực tiễn, nếu không khó tránh khỏi tình trạng nghiệm thu xong rồi "đắp chiếu". Thật đáng quý khi có một cán bộ giảng dạy như PGS, TS Hoan. Bằng các công trình nghiên cứu, ông được đặc cách trao học vị tiến sĩ (không qua bảo vệ).