“Tự bạch” của Khương Hữu Dụng

Nhà thơ Khương Hữu Dụng.
Nhà thơ Khương Hữu Dụng.

Tôi sinh năm 1907 trong một gia đình nghèo ở Phố cổ Hội An. Tuổi thơ, tôi lớn lên trong một không gian vừa đượm không khí trầm tư cổ kính của thơ Đường và Khổng giáo, vừa âm vang những giọng hò mênh mang trên dòng sông Thu Bồn... Ba tuổi mồ côi mẹ, lớn lên trong tình thương của bà nội và bố, người hay ngâm thơ Đường và kể chuyện tiểu thuyết cổ Trung Hoa cho tôi nghe... Lòng yêu thơ của tôi bắt nguồn từ đó.

Những năm tiểu học, ở quê tôi, các phong trào đấu tranh rầm rộ chống sưu thuế, các phong trào Cần Vương, Duy Tân, có khi thành công, nhiều phen thất bại với các tên tuổi Trần Cao Vân, Thái Phiên, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã lưu lại sâu đậm trong ký ức tôi.

Trong bài thơ đầu tiên năm tôi 18 tuổi mừng bà nội tròn 80, tôi từng bộc bạch:

Từng thấy phong trào nhiều độ biến,
Trải xem dâu bể mấy phen dời!...
Kêu cứu? - Còn đâu kêu cứu nữa!
Bọn nghèo chỉ có bọn nghèo thương,
Bọn nghèo muốn sống nhờ ai sống?
Muốn sống cùng nhau kiếm lấy đường

và:

Con đường sống của bọn nghèo ta,
Có một, và duy chỉ một, là:
Tranh đấu luôn và tranh đấu mãi,
Cho ngày mai đẹp hơn ngày qua...

1936 (Thế giới, 1939)

... Cũng vì vậy, tháng 10-1941, tôi bị Pháp cách chức "vì lòng trung thành đáng nghi ngờ và những hoạt động chính trị đáng khiển trách".

Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Thơ tôi kịp thời vạch cái "độc lập" giả hiệu của Nhật:

Bánh vẽ mặt trời ăn cháy cổ,
Thôi đừng líu lưỡi vội hò reo!

và báo hiệu cái mới - Cách mạng - sẽ xuất hiện:

Kìa luồng gió mới đã dâng triều...
...
Tay chung làm để của chung tiêu...

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Tôi tham gia Tổng Khởi nghĩa ở Đà Lạt, trong Ban Thường vụ Việt Minh tỉnh Lâm Viên. Những ngày đầu cam go thù trong giặc ngoài đe dọa nước Việt Nam non trẻ. Với nhãn quan chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ 6-3 nhằm tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn dân lâu dài. Nhiều người không hiểu tỏ ý hoài nghi, bọn phản động thừa cơ xuyên tạc, Bác Hồ chỉ giãi bày bằng một lời giản dị mà trầm thống xiết bao: "Hồ Chí Minh không bán nước". Câu nói của Bác vụt sáng một nhân cách, một trái tim và một lý trí trầm tĩnh vô song, làm bùng lên bầu nhiệt huyết cách mạng và bản năng vô thức của nhà thơ.

Ngay lập tức, tôi hiểu mình phải làm việc gì đó như là sự đồng cảm, sự giãi bày với mọi người về Đảng vĩ đại và Lãnh tụ kính yêu của chúng ta. Kinh nhật tụng của người chiến sĩ được ra đời như vậy, với sự trợ tác của hai bạn thơ Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình, tháng 5-1946. Vì nghĩ rằng "Kinh" nên không để tên tác giả, cốt mong sao nó được phổ biến sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Và trên thực tế, quyển "Kinh nhật tụng" đã được nhiều đơn vị bộ đội, cán bộ cơ quan ở miền nam và Cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ học thuộc lòng, đặc biệt "Kinh" được truyền miệng qua nhiều thế hệ trong lao tù thực dân đế quốc, được các chiến sĩ cách mạng coi đó là "quyển sách gối đầu giường, là vũ khí sắc bén, là cẩm nang ứng xử trong tù"...

Năm 1947-1948, tôi viết Anh hùng ca Từ đêm Mười chín . Tháng 1-1951, Chi hội văn nghệ Liên khu 5 xuất bản lần đầu tiên. Tập thơ được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952, được  đánh giá là "một thành tựu đáng chú ý trong bước tiến của cả nền thơ lúc bấy giờ". Khi về quê hương dự cuộc họp mặt các văn nghệ sĩ Liên khu 5 đúng vào dịp 50 năm toàn quốc kháng chiến (12-1996), tập thơ được tái bản.

Có người hỏi tôi: "Vì sao ngay từ những ngày đầu kháng chiến, bác đã có thể viết nên thiên anh hùng ca đó?". Tôi chỉ có thể nói rằng: "Đó là do hồn thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc đã nhập vào tôi, thúc giục tôi khắc họa lại cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân quê hương tôi, Quảng Nam - Đà Nẵng và cũng là bức tranh chung của cuộc chiến đấu hào hùng cả nước sau ngày toàn quốc kháng chiến...".

... Trong kháng chiến chống Mỹ, trên đất bắc, tôi  làm công tác biên tập, sáng tác và dịch thuật. Tôi lao động bằng tấm lòng và trách nhiệm của một người con đối với quê hương miền nam đang đánh Mỹ, với nỗi nhớ của người cha có hai đứa con trai đều đi bộ đội, đứa lớn đã mãi mãi nằm lại trên chiến trường giữa tuổi đôi mươi, đứa nhỏ đang góp xương máu cùng quê hương chiến đấu. Tuy sức yếu, tôi cũng đi được nhiều, khi ra Vùng Mỏ, khi lên Điện Biên, khi vào Khu 4, giới tuyến...

Hai tập thơ Những tiếng thân yêuQuả nhỏ ra đời trong những tháng năm này cùng với hàng ngàn câu thơ, trang thơ dịch Đường, Tống, Nguyễn Trãi, thơ Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, thơ Hồ Chí Minh... và một số tác giả thơ Pháp (Victor Hugo, Apolinaire...) và cùng Lê Trí Viễn dịch Thần khúc của Dante...

Tôi coi dịch là một cuộc trò chuyện với những tâm hồn đồng điệu, để cảm ơn tác giả về những bài thơ hay khiến mình thích thú, mong làm sao nói được tâm sự của người xưa muốn gởi lại đời sau... và rút ra quan điểm Dịch là đối thoại (Tham luận tại Hội nghị Dịch thuật kỷ niệm 800 năm Trường ca "Cuộc hành binh Igor" tại Liên Xô năm 1986), quan điểm mới này được bạn bè quốc tế tán thưởng.

Tôi về hưu năm 63 tuổi. Năm nay tôi 93. Ba mươi năm qua, người càng già đi, nhưng thơ vốn không có tuổi. Thơ là máu thịt, là Đạo của tôi. Nên cùng với thơ, tôi vẫn vui sống, yêu nước và yêu đời, thanh bạch và vô tư, làm thơ và dịch thuật, hệt như 75 năm về trước.

Tuổi già, tôi có ba cái nghĩ về mình:

- Nghĩ về Cuộc đời:

Sống chết từng qua cơn nước lửa
Vui buồn chỉ thoáng bóng mưa mây...

- Nghĩ về Thơ:

Bi bô từ thuở "Tiếng Dân"
Bạc đầu thơ vẫn tiếng Xuân đánh vần...

- Và nghĩ về Nghề:

Bài thơ đầu tiên tôi viết năm 1925. Bài thơ chữ Hán dịch đầu tiên năm 1928.

Nếu coi đó là Nghề thì nghề một đời của tôi là: làm thơ và dịch thơ.

Có thể nói, suốt ba phần tư thế kỷ qua, thơ là nơi tôi đã gởi gắm những tâm sự, những trăn trở của mình về thế sự, về vận mệnh đất nước và dân tộc...

Tóm lại, tôi đã hiến trọn cuộc đời tôi cho Tổ quốc, cho Cách mạng và cho Thơ.

Có thể bạn quan tâm