Sinh ngày 10-3-1954 ở đất học Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) xưa có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thày Kế (xin phép được thân mật gọi ông như vậy) là sinh viên “Khoa Sử Tổng hợp” (theo cách nói cũ). Ông trưởng thành từ Khoa Sử, trở thành một trong số ít TSKH ngành Sử. Ông vui vẻ, mãn nguyện nhận cái nghiệp “chở đò” cho nhiều thế hệ sinh viên học sử qua “con sông” học vấn đại học và dẫn dắt, hướng dẫn cho nhiều nhà sử học tương lai trong bước đầu chập chững trên con đường nghiên cứu khoa học.
Trong Lý lịch khoa học của thày Kế, số bài báo khoa học đã đăng là 98; số đầu sách: 3; số đề tài đã nghiệm thu: 3, số học viên và NCS đã trường thành: 10... Những con số (có vẻ) không có gì là “ấn tượng” về độ “hoành tráng”, (có vẻ) tẻ nhạt và đơn điệu. Nhưng khi đọc những dòng ông viết, dù là những người không am hiểu lắm về sử cũng khó mà dừng lại. Văn phong khoa học kết hợp với sự lãng mạn bay bổng lãng du trên cái nền tư duy sắc sảo, rành mạch và khúc triết của ông đã tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút khó cưỡng đó. Điều này thể hiện ngay từ cách đặt tiêu đề cho các bài viết khoa học của ông làm người đọc hết sức thú vị và khâm phục: Vân Đồn - một vùng biên không yên tĩnh (2007), Về những đấng phi thường trong triều đình Hoa Lư (2009), Đến ngàn năm Thăng Long - Hà Nội từ tài liệu lưu trữ (2009), Khúc bi tráng của trí thức Nho học Việt Nam cuối XIX (2011)... v.v.
Bài giảng của thày Kế (chủ yếu về lịch sử văn hóa Việt Nam) cuốn hút sinh/học viên bởi khối lượng tri thức đồ sộ và sinh động, bởi cách truyền đạt của ông hấp dẫn, bay bổng nhưng có điểm nhấn, nói nhiều chuyện “ngoài lề” để chứng minh cái cốt lõi... và cũng bởi ngoại hình “dị nhân” rất ấn tượng của ông - cao gày, khắc khổ, răng hô nhưng ánh mắt tràn đầy yêu thương và lạc quan. (Về bộ răng hô của thày Kế, có một thời những người thân xung quanh nói trộm khi vui vẻ trà dư tửu hậu: “... Kế làm chủ nhiệm thì răng hơi nhiều” (!) rồi cười với nhau. Ông biết, cũng cười, còn cười lớn hơn và tự trào: “Tôi thuộc loại không nên đến các đám ma...” (!)).
Những kiến thức phong phú về lịch sử, văn hóa, về văn hóa vùng miền, về quá trình tiếp biến, tương tác văn hóa ở đó sau những giai đoạn lịch sử mà ông truyền lại cho học trò rất có “hồn” và thuyết phục bởi vốn kinh nghiệm điền dã, kỹ năng quan sát, phân tích liên ngành và hệ thống tư liệu đồ sộ của ông. Những điều đó được ông dạy trên giảng đường nhưng thật may mắn hơn cho những học viên nào được ông bảo trực tiếp trong các chuyến đi. Đó là những bài học không thể nào quên trên con đường học thuật của họ.
(Trong một dịp đi dự hội thảo, trên xe, ông giải thích thế nào là “những mảnh ruộng chó chạy thòi đuôi” đã khiến nhiều người ngạc nhiên. Rồi ông lại nói: “Thày Vượng (cố GS Trần Quốc Vượng) dạy tôi từ hồi còn là sinh viên đấy”. Thày Kế đã truyền “lửa” và kinh nghiệm cho những người yêu sử và học sử như thế).
Chẳng những học viên, sinh viên khoa sử mà cả những bạn bè của họ đều yêu quý thày Kế. Bên cạnh cái trí uyên bác của người thày, mọi người quý ông vì cái tâm trong sáng và ngay thẳng và cái tình ấm áp.
Ông thương những nỗi vất vả của sinh viên trong cuộc “vật lộn” học tập và mưu sinh. Ông động viên họ từ những điều nhỏ nhất, từ những cơ hội nhỏ nhất. Ông phẫn nộ với những thái độ thờ ơ, vô cảm. Với những kinh nghiệm sống của một người thày và tình cảm của một người anh, người cha, thày Kế đã chỉ hướng và tiếp thêm sức lực cho nhiều người có thêm dũng khí đẩy “cánh cửa cơ hội” đã hé mở và dấn thân trên con đường khoa học. Ông đã góp phần công sức không nhỏ để hình thành đội ngũ cán bộ trẻ đầy năng lực cho khoa Sử hôm nay và cả trong tương lai.
Ngoài đời thường, mọi người nhớ thày Kế dung dị và chan hòa, thân thiện và dễ mến. Ông không thích “tác phong comple cavat”. Với người ít tuổi hơn, ông vẫn cười vui vẻ gọi “ông”, “bà”, “cô em”, thậm chí thân mật hơn là “con mẹ đĩ này”, “bố thằng cu này” và xưng “nhà cháu”. Nhưng với những người cao tuổi hơn ông đều xưng “em - thày” như trong lớp ngày xưa. Khách đến chơi nhà, dù chỉ là “đàn em”, thày Kế vẫn như một ông nông dân chất phác trong làng, mang hết những gì ngon nhất ra đãi khách và cười hồ hởi chỉ vì khách khen ngon, khen đẹp một câu...
Ai đó đã nói: “Người ta sống trong trí nhớ người khác”.
Tôi nghĩ điều đó đúng. Và thày Nguyễn Hải Kế vẫn còn sống, với tôi và các bạn...

PGS, TSKH Nguyễn Hải Kế và GS Phan Huy Lê.