Trăm năm Trường Bưởi

Nói đến Trường Bưởi - Chu Văn An, không thể không nhớ ngay tới các giáo sư Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Lê Thước, Nguyễn Xiển, Nguyễn Mạnh Tường, Ngụy Như Kon Tum... Ðây là nơi "tòng học" của hai nhà cách mạng nổi tiếng, hai người con ưu tú của nhân dân Lào anh em: Cố Chủ tịch Suphanuvong và cố Tổng Bí thư Ðảng NDCM Lào Cayson Phomvihan.

Rồi các nhà cách mạng, các nhà văn hóa thành danh Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Hoàng Ðạo Thúy, Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Ngọc Phách, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Nghiêm Xuân Yêm, Ðào Tùng, Phan Anh, Ngô Thúc Lanh, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Lân, Nguyễn Ðình Thi, Thép Mới, Dương Trọng Bái, Nam Trân, Phan Huy Lê, v.v.

Với bề dày lịch sử như vậy, Trường Bưởi - Chu Văn An đã nhiều lần được đón Bác Hồ tới thăm, lần đầu tiên ngày 18-12-1954, chỉ hai tháng sau ngày thủ đô được giải phóng và lần thứ năm, ngày 31-12-1958. Chính tại ngôi trường bề thế, cổ kính này, Bác Hồ đã "Chúc các thầy dạy tốt, các trò học tập tốt", từ đó khắp nơi trong nước đã phát động phong trào từ miền xuôi tới miền ngược, từ đất liền tới hải đảo, thi đua "dạy tốt, học tốt", góp phần đào tạo cho đất nước những công dân năng động, sáng tạo, dũng cảm, dám xả thân quên mình vì quê hương, đất nước, "khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Cố Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, khi tới thăm trường đã chúc không chỉ thầy và trò Trường Chu Văn An, mà chúc tất cả các thầy giáo, cô giáo, học sinh cả nước "Trường ra trường, lớp ra lớp; thầy ra thầy, trò ra trò; dạy ra dạy, học ra học".

Trường Chu Văn An bây giờ.

Lứa chúng tôi lần đầu tiên được đặt chân tới ngôi trường danh tiếng này - năm 1956 - cũng là năm học đầu tiên nền giáo dục nước ta bước vào đợt cải cách từ hệ thống 12 năm học xuống còn 10 năm. Các thầy, cô giáo dạy chúng tôi có người từ các trường trung học kháng chiến Hùng Vương trên Việt Bắc, Lam Sơn ở Thanh Hóa về, có người đã là các giáo sư trung học dạy ở trường trước ngày Thủ đô Hà Nội được giải phóng. Thầy Mai Phương hiệu trưởng, thầy Ðoàn Nồng hiệu phó.

Về sau, khi học đại học, tôi lại may mắn nghe thầy Ðoàn Nồng, cùng với thầy Huỳnh Lý giảng về văn học cổ điển Pháp. Những năm học thật tuyệt vời mà giờ đây, khi tuổi đã cao, tóc trắng, mỗi lần tụ họp, lũ học trò Trường Bưởi năm xưa lại bồi hồi, xúc động. Lớp cha anh kể lại rằng, trước Cách mạng Tháng Tám, là giáo sư văn học Pháp ở Trường Quốc học Huế, nhưng thầy Ðoàn Nồng đã có nhiều bài toán hay trên các tạp chí dành cho học sinh trung học.

Tôi không bao giờ quên được hình ảnh thầy Ân, dạy môn hóa hữu cơ. Thầy dạy dễ hiểu dù các công thức hóa học đâu có dễ nhớ. Là thầy dạy môn tự nhiên, nhưng thầy chữa câu văn của học sinh rất kỹ, sửa từng dấu chấm câu, chữ viết hoa bởi "Chỉ cần đặt sai dấu chấm câu là câu văn đã mang một ý nghĩa khác hẳn. Là người Việt Nam, chả lẽ ta lại không sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ". Chả vậy mà thầy Ngọc, thầy Ứng dạy văn, mỗi lần vào lớp lại tủm tỉm cười "Thế nào, hình như bài làm của nhiều anh, chị lại làm tôi xấu mặt với thầy Ân phải không?". Rồi cô Phượng, thầy Ðôn, thầy Huyền, thầy Thân, thầy Hải... Người dạy môn toán, người dạy vật lý, Trung văn... Thầy Quỳ dạy nhạc, thầy Dung dạy họa. Với những người thầy tận tâm như vậy hỏi sao lũ học trò chúng tôi lại không chịu học hành cẩn thận.

Ðã mấy chục năm trôi qua, nay các thầy, cô giáo và cả lũ học trò nhỏ ngày ấy của các thầy, mỗi người một số phận, một mảnh đời khác nhau, nhưng tất cả đều nhớ tới mái trường xưa, nơi mình đã học chữ, học làm người. Thời chúng tôi học trung học rất hồn nhiên, trong sáng, dù vào học đại học hay phải đi làm ngay vì nhiều lý do khác nhau, ra trường chúng tôi đều tình nguyện đi bất cứ nơi đâu mà Tổ quốc cần, "đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên". Ðấy là thế hệ của các Pa-ven Coóc-xa-ghin, của Ruồi Trâu, của các "thanh niên cận vệ đội" không mảy may suy tính thiệt hơn. Vì thế, giờ đây, khi gặp nhau, ai cũng tự hào nói với nhau rằng mái trường xưa thân yêu đã dạy chúng tôi phải biết làm người trung thực dù đời sống vật chất, cương vị xã hội mỗi người có khác nhau.

Gần năm chục năm xa trường, mỗi khi có dịp tụ hội và lại được đón các thầy, các cô đã từng dạy dỗ mình như cô Phượng, thầy Ðôn, thầy Vinh... nhiều lúc tôi cứ tự hỏi: Sao thời đó khó khăn, thiếu thốn đủ bề mà các thầy, các cô vẫn nhớ tên lũ học trò năm xưa? Chắc các thầy chỉ nhớ lũ học trò giỏi giang, hiền lành hoặc quá nghịch ngợm? Ðâu phải vậy. Còn nhớ cách đây vừa tròn mười năm, về dự lễ kỷ niệm 90 năm thành lập trường, chúng tôi may mắn được gặp lại một số thầy giáo, cô giáo dạy mình thuở xưa, giờ tóc đã bạc phơ. Chúng tôi nhao nhao như lũ trẻ con "đố" thầy nhớ được tên mình. Hóa ra các thầy đâu có quên, dù đã chở qua con sông tri thức biết bao lứa học trò.

Thầy Vinh dạy toán chỉ tay vào đám nữ sinh "yểu điệu thục nữ" năm xưa như điểm danh trò Tuyết Mai, trò Giao, trò Hiền, trò Liên, trò Thủy, trò Chỉnh, trò Quỳnh Anh, trò Kim Thanh... Chắc thầy chỉ nhớ tên lũ học trò con gái, bọn hắn chăm chỉ học hành lại ngoan ngoãn, chứ còn cái lũ chỉ ham đá bóng, đá cầu bọn tôi chắc khó còn lưu lại trong bộ nhớ của thầy. Ai dè thầy gọi tên mấy đứa gần nhất: trò Xoa, trò Hải, trò Hiếu, trò Bảng, trò Ðĩnh, trò Ngọc, trò Thiêm, trò Túc, trò Bích, trò Tịnh, trò Ðức Huy. Ðây là trò Tuyên lém lỉnh chứ gì. Quay lại tôi, thầy hỏi: "Bây giờ em làm gì?" - "Thưa thầy, con đi làm báo". Ngạc nhiên, thầy hỏi: "Sao lạ vậy. Hồi xưa, em đâu có ham môn Văn và mấy môn khoa học xã hội khác. Em cũng ngán môn Trung văn của thầy Ðôn, thầy Hạnh, thầy Huyền lắm cơ mà. Nghe nói sau khi thi tốt nghiệp, em nói với các bạn là trúng tủ chủ đề Ðiện Biên Phủ chứ không thì trượt vỏ chuối môn Trung văn". Ðành cười trừ chữa ngượng với các thầy, các bạn chứ sao nữa...

Nhớ mãi mái trường xưa!

Có thể bạn quan tâm