Khách mời của chương trình gồm: ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách đa biên, Bộ Công thương; ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế; bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương; Chuyên gia kinh tế Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM.
Cuộc tọa đàm được tường thuật trực tiếp trên Báo Nhân Dân điện tử, tại địa chỉ: www.nhandan.com.vn và www.nhandan.org.vn
Bạn đọc quan tâm về chủ đề này, có thể gửi câu hỏi trực tiếp đến các khách mời của chương trình để được giải đáp qua email nhandandientutiengviet@gmail.com, hoặc tại Fanpage của Báo Nhân Dân điện tử Tiếng Việt https://www.facebook.com/nhandandientutiengviet.
14:35
Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử phát biểu khai mạc Tọa đàm
Kính thưa quý vị và bạn đọc,
Ngày 15-11-2020, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và lãnh đạo các nước thành viên, sau tám năm đàm phán, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đã chính thức được ký kết, mở ra thêm cho doanh nghiệp và người dân những cơ hội và cả thách thức mới. Đồng thời cũng đánh dấu một bước tiến mới của nền kinh tế chúng ta hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới.
Như các đồng chí đã biết, Hiệp định RCEP vừa được ký, bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và năm quốc gia mà ASEAN đã ký Hiệp định Thương mại tự do là: Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Hiệp định có hiệu lực sẽ tạo ra thị trường quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Các nghiên cứu khoa học đều chỉ ra rằng, RCEP kỳ vọng sẽ mở ra một thị trường đầy tiềm năng cho các mặt hàng thế mạnh, nhất là nông sản nhiệt đới và thực phẩm chế biến. RCEP cũng mang lại nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta do quy trình xuất, nhập khẩu được đơn giản hóa sẽ giảm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp, đồng thời tăng tỷ suất lợi nhuận và sức cạnh tranh tại thị trường RCEP.
Với RCEP, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực, đồng thời được hưởng lợi từ việc cắt giảm chi phí giao dịch và môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN.
Tuy nhiên, RCEP cũng đặt ra những thách thức cho ngành nông nghiệp nếu muốn tận dụng hiệu quả lợi thế từ hiệp định. Ðó là việc các mặt hàng tương đồng sẽ chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn giữa các quốc gia tham gia RCEP, trong đó một số quốc gia có cùng chủng loại hàng nông sản với nước ta. Mặt khác, khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam cũng trở thành thị trường nhập khẩu nông sản lớn từ các nước trong RCEP, nên các doanh nghiệp nước ta chắc chắn sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt ngay chính trên "sân nhà" trong cuộc chiến chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Thời gian để RCEP chính thức có hiệu lực không còn dài, chúng ta cần hết sức khẩn trương, chủ động để nắm bắt những thuận lợi mà hiệp định mang lại, đồng thời khắc phục những "lỗ hổng", yếu kém của mình.
Để tận dụng tối đa cơ hội từ các hiệp định thương mại (FTA), ngoài điều kiện cần là các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, bộ, ngành và các địa phương, sự chủ động và tích cực của doanh nghiệp (DN) mới là điều kiện đủ để hiện thực hóa các lợi ích và cơ hội mà các FTA mang lại.
Các DN, hiệp hội cần chủ động tìm hiểu thông tin về các FTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm. Bên cạnh đó, DN Việt Nam cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. Hiệp định RCEP và các FTA sẽ mang lại cơ hội cho DN nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng nêu trên.
Chính vì vậy, chúng tôi rất mong các quý vị đại biểu cùng nhau trao đổi thẳng thắn, làm rõ các nội dung cam kết trong Hiệp định RCEP, giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, doanh nghiệp và người dân hiểu rõ và hiểu đúng các cơ hội và thách thức, để tận dụng hiệu quả Hiệp định này mang lại.
Một lần nữa, thay mặt Ban Nhân Dân điện tử, tôi xin cảm ơn các vị khách mời, các đồng nghiệp đã tham gia buổi tọa đàm trực tuyến hôm nay.
Xin chúc quý vị một năm mới sức khỏe, hạnh phúc và chúc buổi tọa đàm hôm nay thành công tốt đẹp!
14:37
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách đa biên, Bộ Công thương, RCEP sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam trên những khía cạnh nào trong ngắn hạn và dài hạn?
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách đa biên, Bộ Công thương
Có thể nói RCEP là hiệp định thương mại tự do truyền thống với các tiêu chuẩn cao hơn cam kết của WTO.
Trong bối cảnh của đại dịch Covid-19 bùng phát làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và ASEAN, mang lại các lợi ích cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Thứ nhất, Hiệp định RCEP, khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và áp dụng một quy tắc xuất xứ chung giữa 15 nước (thay vì áp dụng năm bộ quy tắc xuất xứ theo năm hiệp định tự do thương mai của ASEAN+1 như hiện nay) giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, việc thiết lập Hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia.
Thứ hai, ASEAN đã đa phương hoá quan hệ song phương với các đối tác trước đây, qua đó khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong việc đặt ra các điều kiện về thương mại với các đối tác.
Theo đó, Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu của ASEAN ổn định lâu dài. Trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta.
Thứ ba, việc thực hiện Hiệp định RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo một số nghiên cứu độc lập, thí dụ như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thì việc chúng ta chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, làm cho Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.
RCEP một lần nữa khẳng định được vai trò trung tâm của ASEAN trong việc xây dựng điều kiện về thương mại đối với các đối tác của khối
14:42
Hỏi: Thưa ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, những điều mà giới doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm nhất trong RCEP là gì?
Ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế:
Cũng như với các hiệp định FTA khác, để khai thác triệt để lợi ích do Hiệp định RCEP mang lại, việc đầu tiên doanh nghiệp Việt Nam cần làm là nghiên cứu kỹ cam kết của Hiệp định, nhất là các cam kết liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình.
Có hai mảng chính chúng ta cần quan tâm: Một là, về mặt xuất khẩu hàng hóa đi, chúng ta cần quan tâm đến lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia Hiệp định, quy tắc xuất xứ của Hiệp định, các quy định về vệ sinh kiểm dịch, rào cản kỹ thuật. Hai là, chúng ta cần xem việc cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại.
Để khai thác hiệu quả Hiệp định này, chúng ta không chỉ quan tâm riêng cam kết của Việt Nam mà còn phải xem chúng ta cam kết gì với 14 đối tác còn lại.
Việc ký kết hiệp định lớn có hai mặt. Một mặt là hàng hóa của chúng ta có khả năng xuất khẩu sang nước khác, dịch vụ vươn ra được thị trường thế giới, nhưng thị trường Việt Nam cũng sẽ phải đón nhận hàng hóa từ nước ngoài, nên chúng ta phải có mức độ mở cửa thị trường tương đối.
Do đó, doanh nghiệp phải có hai chiến lược. Về ngắn hạn, các doanh nghiệp phải chuẩn bị cho mình chiến lược phòng thủ. Theo đó, doanh nghiệp cần củng cố thị trường trong nước, nâng cao chất lượng mặt hàng, nhận diện thương hiệu của mình chuẩn xác. Với chiến lược tấn công, doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch mở cửa thị trường, thậm chí thị trường quen với mặt hàng có lợi thế.
Ngoài các lợi ích, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi mà Hiệp định RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.
14:45
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, nhiều ý kiến cho rằng RCEP có khả năng mang lại lợi ích cho Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc hơn các quốc gia thành viên khác. Quan điểm của Bộ Công thương về việc này? Bộ có điều gì muốn chia sẻ thêm về Hiệp định?
Ông Lương Hoàng Thái:
Hiệp định RCEP giúp Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thiết lập quan hệ hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhau trong khi FTA do ba nước này đàm phán vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hiệp định RCEP là một FTA trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm, và các nước đối tác đều dành cho ASEAN mức độ mở cửa thị trường cao nhất. Cụ thể, các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều dành cho ASEAN mức độ mở cửa thị trường cao hơn mức mà các nước này dành cho nhau.
Chẳng hạn Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc dành cho ASEAN tỷ lệ tự do hóa thuế quan lần lượt là 90,4%, 90,7% và 90,5% sau 20 năm (trong đó xóa bỏ ngay khi Hiệp định RCEP có hiệu lực đối với 75,6%, 64,1% và 67,9% số dòng thuế) trong khi Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ dành cho Trung Quốc tỷ lệ tự do hóa thuế quan lần lượt là 88% và 86% sau 20 năm (trong đó chỉ xóa bỏ ngay khi Hiệp định RCEP có hiệu lực đối với 57% và 50,4% số dòng thuế) và Trung Quốc chỉ chỉ dành cho Nhật Bản và Hàn Quốc tỷ lệ tự do hóa thuế quan là 86% sau 20 năm (trong đó chỉ xóa bỏ ngay khi Hiệp định RCEP có hiệu lực đối với 25% và 38,6% số dòng thuế).
Ngoài ra, việc áp dụng một bộ quy tắc xuất xứ duy nhất cho cả khu vực RCEP thay cho năm bộ quy tắc xuất xứ riêng ở năm Hiệp định Thương mại tự do ASEAN Cộng hiện hành giữa ASEAN với từng đối tác là một thuận lợi nổi bật của Hiệp định RCEP đối với các nước phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu như Việt Nam. Trong khi đó, với các nước có nền sản xuất đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, thí dụ như Trung Quốc, nơi mà nền sản xuất có thể đạt tỷ lệ nội địa hóa lên tới 100% với nhiều sản phẩm thì thuận lợi trên sẽ không đáng kể.
Hơn nữa, Hiệp định RCEP sẽ thiết lập một sân chơi khu vực với một khuôn khổ ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn tại các FTA ASEAN + hiện hành, gồm các quy định điều chỉnh thương mại hàng hóa cũng các quy định về giải quyết tranh chấp sẽ đem lại giá trị cao trong việc giảm chi phí giao dịch, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường vị trí trung tâm của ASEAN trong việc giải quyết các xung đột về thương mại trong khu vực, tạo cơ hội nhiều hơn cho các nước có quy mô kinh tế vừa phải như các thành viên ASEAN.
14:49
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, với thị trường Trung Quốc, chúng ta nhập siêu 33,8 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu 40% (năm 2019). Với thị trường ASEAN, chúng ta nhập siêu 7 tỷ USD, tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu -1.3% (năm 2019), và chúng ta đã có FTA (AFTA). Với thị trường Việt Nam - Australia, chúng ta nhập siêu 0,9 tỷ USD năm 2019 so với xuất siêu 0.3 tỷ USD năm 2018. Với thị trường Hàn Quốc, chúng ta nhập siêu 27 tỷ USD, tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu -10% (năm 2019), đã có FTA (VKFTA). Với thị trường Nhật Bản, chúng ta xuất siêu 0,8 tỷ USD năm 2019 so với nhập siêu 0,2 tỷ USD năm 2018, đã có FTA (CPTPP). Nhìn vào các thông số trên thì RCEP có phải là màu hồng với Việt Nam không khi Việt Nam là nước nhập siêu phần lớn từ các quốc gia trong RCEP - nơi mà các nền kinh tế đều định hướng xuất khẩu?
Bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương:
Nhìn vào các con số này chúng ta có thể thấy thực tại xuất nhập khẩu của Việt Nam với các thị trường trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cán cân thương mại của Việt Nam với Australia và Nhật Bản cơ bản dao động quanh mức cân bằng. Việt Nam nhập siêu từ ASEAN nhưng có xu hướng giảm dần. Trong khi đó, chúng ta vẫn phải nhập khẩu khá lớn nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, thiết bị từ Hàn Quốc và Trung Quốc để sản xuất, xuất khẩu hướng đến thị trường châu Âu, châu Mỹ. Việc Việt Nam nhập siêu từ các thị trường này không phải vì các thị trường này có định hướng xuất khẩu mà vì bản chất cơ cấu sản xuất, cơ cấu thương mại hiện nay của nước ta.
Do các thị trường đều đã là đối tác FTA của Việt Nam nên mở cửa thị trường thông qua đàm phán giảm thuế không là mục tiêu của Hiệp định. Thay vào đó, RCEP hướng đến thúc đẩy thương mại nội khối, tăng cường chuỗi giá trị, chuỗi liên kết sản xuất. Khi đó, có thể cán cân thương mại với từng thị trường có thể thay đổi theo chiều hướng khác nhau, tuy nhiên, xét về mặt tổng thể, RCEP thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và gia tăng thặng dư thương mại.
Với RCEP, tạo thuận lợi hóa thương mại, giảm chi phí giao dịch sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng, bao gồm cả các sản phẩm sơ chế, nguyên vật liệu. Bởi vậy, tham gia RCEP, phát triển chuỗi sản xuất nội khối sẽ tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước được tham gia sâu vào chuỗi sản xuất khu vực. Về lâu dài, sẽ nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, đưa cán cân thương mại tổng thể càng gia tăng về phía xuất siêu.
14:53
Hỏi: RCEP được đánh giá là Hiệp định tự do thương mại lớn nhất thế giới, tuy nhiên, thành viên của Hiệp định không chỉ bao gồm các nước phát triển, mà còn có những nước chưa phát triển. Sự chênh lệch về kinh tế như vậy gây ra khó khăn thế nào khi Hiệp định có hiệu lực, thưa ông Trịnh Minh Anh?
Ông Trịnh Minh Anh:
Tôi cho rằng sự chênh lệch này là mặt thuận. Mục đích mà mười nước ASEAN ký với các nước phát triển hơn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… là vừa bảo đảm lợi ích riêng của từng nước, đồng thời tăng cường hợp tác kinh tế khu vực.
Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là phù hợp với cả một số nước ASEAN vẫn còn là nước kém phát triển. Sự chênh lệch này sẽ tạo điều kiện để các nước có thể hỗ trợ lẫn nhau thông qua những chuỗi cung ứng hàng hóa, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của những nền kinh tế phát triển hơn đầu tư sang các nền kinh tế kém phát triển hơn. Đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế kém phát triển hơn có thể tham gia vào các thị trường ngách.
Hơn nữa, tham gia ký kết RCEP, các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc là những doanh nghiệp có thế mạnh trong phát triển, đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ. Đó là những lợi ích mà sự chênh lệch này đem lại cho Việt Nam cũng như những nền kinh tế kém phát triển hơn.
Mặt thứ hai, ngay cả đối với những mảng cam kết khó khăn như mua sắm của Chính phủ…, là những mảng cam kết thường chỉ có ở những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thì mức độ cam kết của những lĩnh vực này trong Hiệp định RCEP chỉ ở mức khiêm tốn, có thể chấp nhận được, đáp ứng được trong ngắn hạn.
14:56
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, RCEP là một hiệp định mở rộng và bao trùm, có thể mở rộng thành viên sau khi có hiệu lực. Xin ông cho biết, việc lựa chọn thành viên tham gia sau đó phải đảm bảo yêu cầu như thế nào?
Ông Lương Hoàng Thái:
Khi hình thành nên Hiệp định RCEP, các nước ASEAN ban đầu hình dung, ASEAN là trung tâm kết nối nhiều nền kinh tế khác nhau. Các nước ASEAN mong muốn đây là hiệp định mở có sự tham gia của nước khác trong tương lai nếu điều kiện cho phép. Thường các bậc thang quan hệ trong phát triển về kinh tế thương mại giữa ASEAN với các nước sẽ đi từ quan hệ đối tác, sau đó có hiệp định thương mại tự do song phương, sau đó có hiệp định đa phương.
Hiệp định RCEP là một hiệp định thương mại tự do, năng động, có cơ chế mở, quy định cho phép: 18 tháng sau khi Hiệp định có hiệu lực, các nước khác có quan tâm và mong muốn tham gia Hiệp định này có thể nộp đơn xin tham gia Hiệp định. 18 tháng là khoảng thời gian ASEAN dự kiến thúc đẩy quan hệ với các đối tác khác nếu nước nào có hiệp định thương mại tự do với ASEAN. Việc tham gia này sẽ được quyết định theo thỏa thuận của nước này với tất cả các thành viên của Hiệp định RCEP.
Với riêng Ấn Độ, nước đã tham gia đàm phán từ giai đoạn đầu nhưng chưa thể tham gia ký kết, Việt Nam và các nước luôn coi Ấn Độ là một đối tác quan trọng, rằng việc tham gia của Ấn Độ vào Hiệp định RCEP sẽ đóng góp cho sự tiến bộ và thịnh vượng chung của toàn khu vực.
Do đó, các nước tham gia ký kết thống nhất có cơ chế riêng mang tính thuận lợi hơn, trong đó có cân nhắc các kết quả đàm phán đã đạt được trước đó với Ấn Độ, cho phép Ấn Độ tham gia các phiên họp RCEP với vai trò là quan sát viên, để Ấn Độ có thể sớm quay lại tham gia Hiệp định khi điều kiện cho phép.
Như vậy, Hiệp định này rất mở, nếu Ấn Độ mong muốn tham gia Hiệp định RCEP có thể tham gia bất kỳ lúc nào ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực. Các đối tác khác phải đi theo tuần tự các chuỗi quan hệ với ASEAN và dự kiến sau 18 tháng có thể tính đến tham gia Hiệp định RCEP.
15:00
Hỏi: Thưa ông Trịnh Minh Anh, theo ông, trong Hiệp định RCEP, những ngành nào sẽ là thế mạnh của Việt Nam? Ngành hàng nào sẽ gặp khó khăn hơn?
Ông Trịnh Minh Anh:
Như tôi đã phân tích ở trên, Hiệp định RCEP dự kiến sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu, giúp thúc đẩy hơn nữa phát triển kinh tế của các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam và các nước đối tác.
Hiệp định RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào các chuỗi giá trị mới trong khu vực và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài.
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ mở ra cơ hội mới cho các sản phẩm từ các lĩnh vực nổi bật như viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và nông nghiệp.
Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan do nguồn cung nguyên liệu đầu vào chủ yếu đều nằm trong RCEP nhằm gia tăng khả năng xuất khẩu trong khu vực này, đặc biệt ở các thị trường lớn như Nhật Bản, Australia, New Zealand và Hàn Quốc.
Mặt khác, theo các nghiên cứu, Hiệp định RCEP cũng mang lại sức ép cạnh tranh hàng hóa cho Việt Nam do nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lượng cạnh tranh, hàm lượng giá trị gia tăng cũng cao hơn so với khả năng hiện tại của Việt Nam.
Đặc biệt, Trung Quốc với lợi thế hàng hóa phong phú, giá rẻ cũng sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam. Vì vậy, ngay cả khi mặt hàng nông, thủy sản là thế mạnh của ta nhưng cũng chính là thách thức cạnh tranh trong khu vực RCEP này.
Theo tôi, chúng ta không nên quá đặt sự chú ý vào việc lợi thế hay không lợi thế, vì thường các ngành chịu sự cạnh tranh sẽ có thêm động lực để phát triển, hoàn thiện tốt hơn.
Vì vậy, tham gia vào bất kỳ Hiệp định thương mại tự do nào với những thành viên có trình độ kỹ thuật cao hơn sẽ là thách thức lớn nhất với các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi mình, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.
15:05
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, với Hiệp định RCEP, cơ hội xuất khẩu đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam như thế nào?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Đa số các nước trong khối RCEP được đánh giá là có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm thủy sản tương đối cao. Trong khi đó, Việt Nam là quốc gia có lợi thế về xuất khẩu thủy sản và trong vòng 10 năm gần đây, ngành thủy sản Việt Nam liên tục duy trì được tốc độ tăng trưởng rất tích cực.
Tại thị trường RCEP, có nhiều nước là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của thủy sản Việt Nam, sau Hoa Kỳ. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba, Hàn Quốc là thị trường lớn thứ tư, Thái Lan xếp thứ năm.
Cam kết cắt giảm thuế quan của Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Australia và các nước ASEAN về 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực và của Hàn Quốc sau lộ trình cam kết 10-15 năm đối với phần lớn mặt hàng thủy sản của Việt Nam cũng mở ra cơ hội mới cho Việt Nam xuất khẩu mặt hàng có thế mạnh này vào thị trường các nước RCEP này một cách nhanh chóng hơn và thuận lợi hơn.
Đồng thời, ta cũng nhập khẩu nhiều thủy sản từ các thị trường RCEP để chế biến xuất khẩu, cụ thể: Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba, sau Na Uy, Ấn Độ; Nhật Bản xếp thứ tư, Indonesia xếp thứ năm.
Hiệp định RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối. Đây được coi là một trong những điểm quan trọng nhất trong Quy tắc xuất xứ hàng hóa của Hiệp định RCEP.
Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam không những tận dụng nguồn nguyên liệu có xuất xứ từ các nước ASEAN mà còn có thể tận dụng nguyên liệu có xuất xứ từ các nước đối tác ASEAN như Australia, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Chẳng hạn, ta có thể nhập khẩu thủy sản từ Trung Quốc để chế biến, xuất khẩu sang Nhật Bản.
15:08
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, có ý kiến cho rằng, vấn đề về quy tắc xuất xứ để hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan tại RCEP là một thuận lợi lớn đối với Việt Nam. Quan điểm của bà về vấn đề này ra sao?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Nhận định trên là có cơ sở, xét đến một số lý do:
Thứ nhất, Hiệp định RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ không những từ các nước ASEAN mà còn có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ từ các nước đối tác ASEAN như Australia, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Đây được coi điểm mở rộng hơn so với các FTA ASEAN+1, giúp doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng nguồn nguyên liệu đa dạng trong toàn khối RCEP để tăng cường khả năng xuất khẩu sang các nước đối tác trong khối.
Ngoài ra, ngay khi thực thi Hiệp định RCEP, ngoài việc áp dụng cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ, các nước thành viên sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận về tính khả thi của cộng gộp toàn phần, là quy tắc xuất xứ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng bước tham gia chuỗi cung ứng khu vực (tương tự như quy tắc xuất xứ trong Hiệp định CPTPP).
Thứ hai, một số mặt hàng có lợi thế xuất khẩu trong Hiệp định RCEP do có quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Quy tắc cụ thể mặt hàng thuận lợi hơn với một số FTA ASEAN + khác, có thể kể đến là mặt hàng da giày, dệt may, thủy sản.
Chẳng hạn, đối với xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, tiêu chí xuất xứ hàng hóa của các loại giày thuộc Nhóm 6401-6405 (như giày thể thao, giày cao gót, ...) trong RCEP là RVC40% hoặc CTH (chuyển đổi nhóm), lỏng hơn so với tiêu chí CC (chuyển đổi Chương) trong Hiệp định ASEAN - Nhật Bản.
Đối với mặt hàng quần áo từ Chương 61-63, tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định RCEP là CC, tức là chỉ cần đáp ứng việc chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ Chương mà không phải trải qua thêm một số công đoạn dệt may như trong một số FTA ASEAN + như ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Hàn Quốc... Vì vậy, có thể nói quy tắc dệt may trong Hiệp định RCEP tương đối đơn giản và dễ dàng áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các nước trong khối RCEP.
Thứ ba, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định RCEP sẽ đa dạng hơn so với các FTA ASEAN+1. Theo đó, doanh nghiệp có thể áp dụng ba hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa như sau: (i) giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) được cấp bởi các tổ chức cấp, (ii) doanh nghiệp đủ điều kiện được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa và (iii) doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu bất kỳ được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Các hình thức chứng nhận xuất xứ đa dạng như vậy sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc giảm thiểu thời gian xin cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) truyền thống, cắt giảm chi phí giao dịch.
15:13
Hỏi: Thưa ông Trịnh Minh Anh, thời hạn thực hiện các cam kết của RCEP cụ thể như thế nào?
Ông Trịnh Minh Anh:
Hiệp định RCEP sẽ có hiệu lực khi ít nhất sáu nước ASEAN và ba nước đối tác hoàn tất thủ tục phê chuẩn, chấp nhận hoặc phê duyệt Hiệp định. Với các nước còn lại, Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với các nước đó sau 60 ngày kể từ ngày nước này hoàn tất các thủ tục trong nước.
Sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, các bên sẽ ngay lập tức thực hiện các cam kết của mình.
Đối với các cam kết thuế quan, Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Đến cuối lộ trình sau 15-20 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan với khoảng 85,6 % - 89,6% số dòng thuế với các nước đối tác, trong khi các nước đối tác xóa bỏ thuế quan cho ta trong khoảng 90,7% - 92% số dòng thuế.
15:15
Hỏi: Thưa ông Trịnh Minh Anh, RCEP có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình khôi phục kinh tế hậu Covid-19 tại Việt Nam hiện nay?
Ông Trịnh Minh Anh:
Tôi cho rằng, Hiệp định này có ý nghĩa rất lớn và có năm vấn đề cơ bản như sau: Thứ nhất, Hiệp định đã khẳng định quyết tâm mở cửa hội nhập của Việt Nam. Như chúng ta đã biết, trong thời gian vừa qua, Việt Nam vẫn kiên trì đường lối mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Và thực tế, chúng ta đã gặt hái được rất nhiều thành công từ việc mở cửa hội nhập.
Thời gian vừa qua, không riêng gì Covid-19 mà có thể nói, chưa bao giờ kinh tế thế giới trở nên ảm đạm và khó dự đoán như vậy. Trong giai đoạn hiện nay không chỉ bị tàn phá vì Covid-19 mà còn bị ảnh hưởng rất lớn từ xung đột chiến lược, xung đột kinh tế thương mại quốc tế. Việt Nam luôn sẵn sàng mở cửa, hội nhập chứ không chỉ hô khẩu hiệu đơn thuần.
Thứ hai, như tôi nói thì Covid-19 và những xung đột thương mại đã làm đứt gãy các chuỗi cung ứng, làm đình trệ mọi thứ. Những tháng đầu khi dịch Covid-19 bùng phát, ta thấy rõ ràng sản xuất của Việt Nam tuy không bị ảnh hướng lớn nhưng ảnh hưởng nhiều đến các nước khác, nên chúng ta không đủ nguyên vật liệu để sản xuất, gây khó khăn đến xuất khẩu.
Thứ ba, là việc ký hiệp định đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu có ý nghĩa ổn định và lâu dài hơn.
Thứ tư, khu vực này là khu vực mà chúng ta nhập khẩu rất nhiều nguyên vật liệu, cũng tạo thuận lợi cho chúng ta nhập khẩu những nguyên vật liệu để có thể ổn định cho việc sản xuất.
Cuối cùng, đây là thị trường mà những sản phẩm thế mạnh của Việt Nam có thể phát huy được. Thí dụ, dệt may, da giày... là những sản phẩm có cơ hội phát triển.
15:18
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, ông đánh giá như thế nào về khả năng quay lại RCEP của Ấn Độ?
Ông Lương Hoàng Thái:
Ấn Độ đã cùng các nước ASEAN tham gia đàm phán từ giai đoạn đầu những năm 2019, Ấn Độ đã quyết định rút khỏi đàm phán do hoàn cảnh chưa phù hợp.
Tuy nhiên, Việt Nam và các nước ASEAN luôn coi Ấn Độ là một đối tác quan trọng. Việt Nam đánh giá cao quá trình tham gia đàm phán Hiệp định RCEP của Ấn Độ trong bảy năm. Mặc dù Ấn Độ chưa thể tham gia Hiệp định RCEP tại thời điểm này, các nước tham gia Hiệp định RCEP luôn cho rằng việc tham gia của Ấn Độ vào Hiệp định RCEP sẽ đóng góp cho sự tiến bộ và thịnh vượng chung của toàn khu vực.
Do vậy, tất cả các nước tham gia Hiệp định RCEP sẵn sàng tạo điều kiện cho Ấn Độ tham gia Hiệp định RCEP trong tương lai theo cơ chế thuận lợi, trong đó có cân nhắc các kết quả đàm phán đã đạt được trước đó với Ấn Độ, cho phép Ấn Độ tham gia các phiên họp RCEP với vai trò quan sát viên và tham gia vào các hoạt động hợp tác kinh tế trong khuôn khổ RCEP ngay từ thời điểm hiện tại.
Bước vào năm nay, với vai trò là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cố gắng kết nối với các nước khác, cố gắng thuyết phục Ấn Độ quay trở lại đàm phán để cùng ASEAN tiếp tục, nhưng do hoàn cảnh đặc biệt, dịch bệnh Covid-19, thời điểm không chín muồi để Ấn Độ có thể quay trở lại đàm phán. Vì thế, chúng ta cùng một số nước đưa ra sáng kiến để tạo cơ chế cho Ấn Độ nhanh nhất quay trở lại bất kỳ thời điểm nào.
Hiện nay, ASEAN và Ấn Độ đã có hiệp định thương mại tự do nên Ấn Độ tham gia với ASEAN không vấn đề gì. Nhưng khi đa phương hóa Hiệp định này lên, Ấn Độ phải mở cửa thêm cho một số nước khác, đặc biệt trong đó có một số nước chưa có thương mại tự do Ấn Độ. Nền kinh tế Ấn Độ hiện nay chưa sẵn sàng cho việc đó.
Trong năm của chúng ta làm Chủ tịch ASEAN, sẽ cố gắng thuyết phục Ấn Độ tham gia ký kết. Khi Hiệp định được ký kết, các Bộ trưởng tham gia RCEP cùng thống nhất với nhau có tuyên bố chung về cơ chế để Ấn Độ tham gia trong tương lai.
Các nước ASEAN đều hy vọng Ấn Độ với tư cách là đối tác truyền thống, đang duy trì quan hệ rất tốt với các nước ASEAN, trong tương lai khi nền kinh tế ổn định, phục hồi sau Covid-19 thì nền kinh tế Ấn Độ sẵn sàng có thể tham gia với ASEAN và tham gia với các nước khác trong Hiệp định RCEP.
15:23
Hỏi: Xin hỏi ông Trịnh Minh Anh, Chính phủ cũng như Bộ Công thương đã có những chuẩn bị như thế nào giúp doanh nghiệp tiếp cận cơ hội, tận dụng lợi ích từ RCEP?
Ông Trịnh Minh Anh:
Chính phủ và Bộ Công thương đã thực hiện sáu việc đã làm trong thời gian qua và chuẩn bị trong thời gian tới.
Thứ nhất, đã xây dựng đề án, kế hoạch truyền thông ngay từ trước khi hiệp định được ký kết. Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đã họp với các đơn vị liên quan để yêu cầu xây dựng đề án truyền thông để các doanh nghiệp có thể tận dụng tốt nhất, nhanh nhất hiệp định này khi đi vào hiệu lực.
Thứ hai, xây dựng một loạt hội nghị, hội thảo, chuỗi tập huấn cho doanh nghiệp để tìm hiểu hiệp định này. Buổi tọa đàm hôm nay với Báo Nhân Dân là một trong những hoạt động này, có ý nghĩa rất lớn và có sức lan tỏa cao.
Thứ ba, đưa toàn bộ cam kết của hiệp định này lên trang web của Bộ Công thương, Ban chỉ đạo liên ngành.
Thứ tư, đã và đang có kế hoạch dịch nội dung của hiệp định ra tiếng Việt để mọi doanh nghiệp có thể khai thác.
Chúng tôi có kế hoạch xây dựng ấn phẩm, cẩm nang, đặc biệt là phân tích những cam kết của hiệp định theo chiều dọc, theo từng ngành quan trọng. Chúng ta tham gia rất nhiều hiệp định tự do, rất nhiều cam kết khác nhau. Nếu chỉ phổ biến từng hiệp định một sẽ dễ làm các doanh nghiệp bị lẫn. Hiện nay, chúng tôi đã có năm cuốn cẩm nang và sẽ bổ sung cẩm nang về hiệp định này.
Thứ năm, xây dựng chương trình xúc tiến thương mại trong đó lồng ghép việc thực hiện RCEP và các hiệp định khác.
Thứ sáu, Bộ Công thương yêu cầu các cơ quan thương vụ, trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài thực hiện đồng bộ, chặt chẽ với nhau để giúp đỡ các doanh nghiệp tận dụng khai thác các thị trường của Việt Nam nói chung và RCEP nói riêng.
15:27
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, năm 2020, Việt Nam liên tiếp đón tin vui từ việc ký kết các Hiệp định FTA lớn như CPTPP, EVFTA và mới đây là RCEP. Theo ông, các FTA này có bổ trợ cho nhau như thế nào? Liệu khó khăn của Hiệp định này có thể là thuận lợi của Hiệp định kia không?
Ông Lương Hoàng Thái:
Cùng với các Hiệp định CPTPP và EVFTA, Hiệp định RCEP là một FTA lớn của Việt Nam và bổ trợ quan trọng cho các hiệp định trên.
Về nội dung, các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP được xây dựng trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong WTO và các FTA giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối mà Việt Nam đã cùng ASEAN tham gia trong khi Hiệp định CPTPP và EVFTA là các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với phạm vi và mức độ cam kết rộng và cao hơn. Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là phù hợp với cả một số nước ASEAN vẫn còn là nước kém phát triển. Do vậy, Hiệp định RCEP cũng có nhiều linh hoạt cho các nước tham gia hơn.
Hiệp định RCEP cũng bao gồm một số lĩnh vực mới chưa được cam kết trong các hiệp định FTA của ASEAN trước kia như: thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ, nhưng nội dung và mức độ cam kết là phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước ASEAN khác. Các nội dung này cũng đã được ta cam kết trong các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA nhưng với mức độ cao hơn.
Do vậy, mức độ cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP nhìn chung là hài hòa, có cao hơn các FTA ASEAN + hiện có nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia là CPTPP và EVFTA.
Về quy mô thị trường, với dân số trong khu vực lên tới hơn 2,2 tỷ người, RCEP có phần nhỉnh hơn so với các Hiệp định CPTPP và EVFTA. Đây sẽ là sự bổ sung đáng kể về mặt thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, bên cạnh các thị trường được mở ra từ việc ký kết các Hiệp định CPTPP và EVFTA. Đồng thời, việc tham gia thêm Hiệp định RCEP giúp doanh nghiệp Việt Nam có thêm nguồn nguyên liệu đa dạng hơn để khai thác, tối ưu hóa sản xuất của mình, tăng thêm cơ hội tham gia sâu các chuỗi cung ứng mới. Điều quan trọng là doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nắm bắt cơ hội, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn để khai thác triệt để lợi ích từ tất cả các FTA mà Việt Nam đã tham gia.
Những Hiệp định phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc, tức là phù hợp với lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và người dân thì chúng ta tham gia. Những Hiệp định thương mại tự do này có tính bổ sung cho nhau rất cao. Với những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định với EU, hay Hiệp định với CPTPP thì hướng nhiều hơn đến cam kết mới về mở cửa thị trường. Nhưng bên cạnh đó, rõ ràng các nước cam kết mới mở cửa cho ta thì chúng ta cũng phải cam kết trong những lĩnh vực mới, thậm chí có những lĩnh vực mà trước đây chưa hề mở cửa. Thí dụ như mua sắm của các cơ quan Chính phủ, hay thậm chí chúng ta có các cơ quan nâng cấp những quy định liên quan đến bảo vệ môi trường hoặc bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Bên cạnh đó, chúng ta tiếp tục duy trì tính ổn định và đa phương hóa các thị trường truyền thống mà RCEP thể hiện xu hướng này. Trong thực hiện RCEP không có những quy định như về lao động hay môi trường. Thậm chí trong mua sắm Chính phủ, họ cũng chỉ đưa ra các quy định về minh bạch hóa thông tin, chứ còn mở cửa thị trường là không có, cho nên vừa tầm hơn. Nhưng ở đây lại bảo đảm được tính ổn định của những thị trường truyền thống của chúng ta trong khu vực.
Như bà Nguyễn Cẩm Trang cũng đã nói rất rõ, trong Hiệp định có nhiều quy định về nhiều ngành, đặc biệt là về quy tắc xuất xứ để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các doanh nghiệp của các nước có quy mô kinh tế thấp hơn, có khả năng tận dụng được ưu đãi từ Hiệp định này. Đây là điều chúng ta hướng đến trong Hiệp định RCEP, cũng là điều mang tính bổ sung cho các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao, rất chặt và cũng rất khó đáp ứng. Nhưng doanh nghiệp nào đáp ứng được thì lại vươn lên ở một tầm rất cao. Nhưng ngược lại, đối với thị trường RCEP mức cam kết vừa phải nhưng các doanh nghiệp của chúng ta lại có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn này hơn, và nằm trong chiến lược chung và chủ trương trong nghị quyết 06 là “Đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam”.
15:33
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, không thể phủ nhận RCEP đem lại cơ hội xuất khẩu cho Việt Nam, nhưng cũng phải thẳng thắn nhìn nhận nguy cơ gia tăng nhập khẩu do tăng mua nguyên, phụ liệu từ những thị trường lớn trong RCEP. Bà đánh giá thế nào về vấn đề này?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Về vấn đề nhập khẩu, như tôi đã trao đổi ở trên, hài hòa quy tắc xuất xứ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, trong đó có việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu do các nhà cung cấp chính của ta đều là các nước thành viên Hiệp định khi các quy định về tạo thuận lợi thương mại cùng với các quy tắc xuất xứ xây dựng chung cho cả khu vực được thực thi.
Với cam kết đa phương trong RCEP, Việt Nam có thể gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu, máy móc, thiết bị từ Trung Quốc, nhưng cũng có thể là Hàn Quốc, Nhật Bản,…
Ngoài ra chúng tôi cũng xin nhấn mạnh, công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cũng đang ngày càng phát triển và đáp được nhiều công đoạn trong chuỗi giá trị.
Hiện nay, giá trị gia tăng trong một số ngành hàng đang dần được cải thiện. Về lâu dài, với sự phát triển của năng lực sản xuất trong nước, nhất là công nghiệp hỗ trợ, sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của Việt Nam vào các nước sẽ dần được cải thiện.
Do vậy, chưa thể khẳng định là ta sẽ phụ thuộc một thị trường cụ thể nào.
15:36
Hỏi: Xin hỏi thêm bà Nguyễn Cẩm Trang, Việt Nam luôn là nước nhập siêu lớn từ một số quốc gia lớn. Vậy khi RCEP có hiệu lực, mức độ phụ thuộc một thị trường cụ thể nào đó liệu có gia tăng?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia cùng các nước ASEAN để mở cửa thị trường với các quốc gia lớn như Trung Quốc thông qua Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) từ năm 2010.
RCEP cũng sẽ không tạo ra các cam kết cắt giảm thuế quan mới nữa so với ACFTA. Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam cho Trung Quốc theo Hiệp định RCEP không cao hơn so với Hiệp định ACFTA. Do vậy, việc thực thi Hiệp định RCEP về cơ bản sẽ không tạo ra áp lực cạnh tranh mới và gia tăng cam kết mở cửa thị trường với Việt Nam.
Ngoài ra, Hiệp định RCEP cho phép chúng ta được cộng gộp trong quy tắc xuất xứ trong nội khối sẽ giúp chúng ta không thể gia tăng nhập khẩu không chỉ từ Trung Quốc mà cả Hàn Quốc, Nhật Bản. Do vậy, khó có thể nói là Việt Nam sẽ phụ thuộc một thị trường cụ thể nào hơn.
Giá trị gia tăng trong sản xuất nhiều hàng của chúng ta trong thời gian qua đang dần được cải thiện. Về lâu dài, với sự phát triển của năng lực sản xuất trong nước, nhất là công nghiệp hỗ trợ, sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của Việt Nam vào các nước sẽ dần được cải thiện.
15:40
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, thuế nhập khẩu về 0% sẽ không có mấy ý nghĩa nếu thị trường phía bạn chưa mở cửa chính thức cho các loại hàng hóa Việt Nam. Đơn cử, hiện Trung Quốc mới cho nhập khẩu chính thức chín loại rau quả của Việt Nam. Kế hoạch của các cơ quan quản lý trong việc mở cửa thêm cho các loại rau quả Việt Nam vào thị trường Trung Quốc là gì để tận hưởng hiệu quả RCEP?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Theo phân công của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì đàm phán mở cửa thị trường về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các mặt hàng nông sản, trong đó có trái cây.
Hiện nay, Việt Nam có chín loại trái cây tươi được phép xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc gồm: thanh long, dưa hấu, vải, nhãn, chuối, xoài, mít, chôm chôm, măng cụt. Để tận dụng tốt nhất kết quả đàm phán cắt giảm thuế quan đã được Chính phủ ta thực hiện thành công tại Hiệp định RCEP, Bộ Công thương, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đã và đang phối hợp chặt chẽ, tích cực với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đôn đốc các cơ quan chức năng phía Trung Quốc sớm đẩy nhanh hoàn tất thủ tục cho phép một số loại trái cây mà ta có lợi thế được xuất khẩu sang Trung Quốc.
Đầu tháng 12, Nghị định thư về xuất khẩu thạch đen đã được ký kết giữa cơ quan chức năng có thẩm quyền của hai nước và thạch đen sẽ là mặt hàng tiếp theo được xuất khấu chính ngạch sang Trung Quốc trong thời gian tới. Bên cạnh đó, phía Trung Quốc cũng đã nhất trí sẽ sớm xem xét mở cửa theo thứ tự ưu tiên mà phía Việt Nam đề nghị, gồm: sầu riêng, bưởi, chanh leo, na, roi, bơ và dừa.
Ngoài thị trường Trung Quốc, công tác đàm phán tháo gỡ rào cản về kiểm dịch thực vật để mở cửa thị trường đối với mặt hàng quả tươi của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả rất khả quan. Những mặt hàng quả tươi chủ lực như thanh long, xoài, chôm chôm, vú sữa, nhãn đã được hầu hết các thị trường khó tính và có giá trị cao trong RCEP như Australia, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc… cho phép nhập khẩu.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục đàm phán mở cửa một số loại quả tươi của Việt Nam sang các thị trường tiềm năng trong RCEP như: Nhật Bản với vải, nhãn, vú sữa, chanh leo; Hàn Quốc với thanh long ruột đỏ, bưởi, vú sữa, nhãn, vải, chôm chôm; Australia với nhãn, chanh leo; New Zealand với nhãn, vú sữa, bưởi, vải, măng cụt, dưa hấu, mít.
15:45
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, có ý kiến cho rằng, việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do như thế này sẽ giúp hàng ngoại tràn ngập thị trường Việt Nam. Làm thế nào để Bộ Công thương bình ổn thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa phát triển trên chính sân nhà?
Ông Lương Hoàng Thái:
Khi chúng ta hội nhập thì bất kỳ giai đoạn nào cũng có những ý kiến e ngại là với việc chúng ta mở cửa thị trường như vậy thì cũng khó tránh khỏi việc là hàng nước ngoài tràn ngập ở thị trường Việt Nam.
Khi chúng ta tham gia Hiệp định ASEAN lúc đó nền kinh tế có trình độ phát triển rất thấp so với hiện nay thì vấn đề này cũng đã đặt ra và thực tế là kể từ năm 1996 khi chúng ta tham gia ASEAN thì sức cạnh tranh rõ ràng tăng lên.
Cũng có những doanh nghiệp không cạnh tranh được, thế nhưng phần lớn cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta đã vươn lên, nếu so với giai đoạn năm 1996 đó thì rõ ràng là vươn lên rất mạnh mẽ. Hay là khi chúng ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, sự e ngại đó cũng được đặt ra và khi đó quy mô của nền kinh tế chúng ta năm 2007 cũng nhỏ hơn rất nhiều thế nhưng kể từ sau khi gia nhập WTO thì chúng ta cũng đã trụ vững và thậm chí là vị thế của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, trong việc xuất khẩu tăng lên rất nhiều.
Ví dụ như quy mô xuất khẩu của chúng ta đến năm ngoái đã tăng 3,5 lần so với khi mà chúng ta gia nhập WTO là một con số tăng trưởng thuộc loại nhanh nhất trong số các thành viên của WTO.
Trong số các nước ASEAN thì theo một nghiên cứu của ASEAN giai đoạn vừa qua để rà soát lại thì Việt Nam cũng là nước đứng thứ hai trong khu vực sau Singapore về việc tận dụng những cơ hội của việc mở cửa thị trường, của việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu để phát triển kinh tế của mình, tức là không những chỉ dựa vào nội lực mà còn biết tận dụng một cách thành công những yếu tố của bên ngoài.
Chính vì có những kinh nghiệm như vậy cho nên chúng tôi cũng hết sức tự tin là bây giờ chúng ta bước vào giai đoạn mới là giai đoạn thậm chí còn khó khăn hơn bởi vì chúng ta hội nhập ở mức độ cao hơn. Thế nhưng, với sự chuẩn bị của chúng ta và đặc biệt là sự lớn mạnh của cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta trong giai đoạn vừa qua trong việc vượt qua những thách thức và tận dụng những cơ hội thì chúng tôi hoàn toàn tin tưởng chúng ta sẽ tiếp tục duy trì được sự ổn định của mình và thậm chí là còn có những bước vượt lên.
Đặc biệt là ở ngay sân nhà, chúng ta nhìn thấy ví dụ như tỷ lệ hàng hóa của nước ngoài nhập khẩu ở trong hệ thống bán lẻ của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập vừa qua hoàn toàn là không tăng lên về tỷ lệ mà thậm chí là hàng Việt Nam còn tăng lên và vẫn chiếm đại đa số trong hàng hóa được lưu thông trên thị trường.
Trong giai đoạn tới, tất nhiên với sự chuẩn bị tôi hy vọng là sẽ bài bản hơn, chúng ta đã có những kinh nghiệm thì cả các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như cộng đồng doanh nghiệp đều đã có sự chuẩn bị tốt hơn thì không có lẽ gì chúng ta lại không vượt qua được những khó khăn.
15:48
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, một doanh nghiệp xuất khẩu rau quả hỏi rằng, sau khi ký kết, dự kiến đến khi nào hiệp định sẽ được triển khai? Việc xây dựng các nghị định, thông tư quy định về RCEP dự kiến bao giờ ban hành để doanh nghiệp tham khảo và có ý kiến?
Ông Lương Hoàng Thái:
Hiệp định RCEP sẽ chính thức có hiệu lực sau 60 ngày kể từ thời điểm có ít nhất sáu nước thành viên ASEAN và ba nước đối tác của ASEAN phê chuẩn Hiệp định và gửi thông báo tới Ban Thư ký ASEAN. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết để trình phê chuẩn Hiệp định.
Để triển khai bất kỳ một Hiệp định thương mại tự do nào, cũng cần một quá trình ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật, gồm hai phần. Một là sửa đổi bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tiêu chuẩn của Hiệp định. Với RCEP không đặt ra yêu cầu sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành, cho nên yêu cầu này không đặt ra.
Nhưng có yêu cầu thứ hai, là để đưa Hiệp định vào thực thi cần có một số cơ chế, thí dụ như ban hành văn bản hướng dẫn xem thuế được giảm như thế nào, cấp chứng nhận xuất xứ như thế nào. Những văn bản này mang tính thực thi Hiệp định chứ không phải là đổi mới lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, cho nên thường quá trình ban hành thuận lợi hơn rất nhiều.
Theo quy định đối với các điều luật quốc tế, khi chúng ta trình báo cáo Chính phủ thông qua Hiệp định RCEP, trong đó cũng gồm các gói các văn bản thực thi như thế nào. Quan trọng nhất là thực thi về thuế quan, thứ hai là thực thi cam kết về chứng nhận xuất xứ như thế nào, và những quy định khác có liên quan. Thí dụ như “tự vệ chuyển đổi”, có tám năm để chúng ta ra một cơ chế đặc biệt để bảo vệ cho hàng hóa của Việt Nam, những điều này cũng phải hướng dẫn.
Khi trình Chính phủ như vậy, các bộ, ngành cũng phải dự thảo các văn bản liên quan, mà theo quy định, đều phải đăng lên cổng thông tin điện tử và lấy ý kiến rộng rãi của tất cả các đối tượng liên quan. Nhưng với những quy định mang tính tạo thuận lợi thương mại, thậm chí cao hơn rất nhiều so với những quy định hiện hành, chúng tôi trông đợi những ý kiến đóng góp hết sức tích cực và
Chính phủ cũng sẽ chỉ đạo các bộ, ngành ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thực thi Hiệp định. Các văn bản này đều thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các bộ, ngành và chúng ta cũng đã có kinh nghiệm làm cho nên chúng tôi hy vọng sẽ không mất quá nhiều thời gian.
15:52
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Anh Dương, ông vừa nghe ý kiến của các đại biểu đến từ các cơ quan chức năng. Là một chuyên gia nghiên cứu về các FTA, ông bình luận và bổ sung gì về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) để tận dụng hiệu quả RCEP trong thời gian tới?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Anh Dương:
Đầu tiên, tôi nhất trí với các ý kiến của anh Minh Anh, chị Trang đưa ra trước đó.
Về cá nhân tôi, cần có thêm một số định hướng để giúp DN Việt Nam đặc biệt DNVVN nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất trong quá trình tham gia RCEP.
Thứ nhất, là cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mang lại môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định giảm thiểu rủi ro cho DN trong quá trình kinh doanh.
Thứ hai, liên quan đến cộng đồng DN, cần có thông tin về điều kiện hội nhập các thị trường đối tác qua đó giúp DN so sánh và đưa ra quyết định tham gia.
Thứ ba, theo tôi quan sát các DN Việt Nam thường phải chịu rủi ro khi chính sách nước ngoài thay đổi và ban hành, do đó cần có các kênh thông tin giúp DN nắm được quá trình thay đổi chính sách giúp DN Việt Nam có thể tham gia vào quá trình này giảm thiểu rủi ro cho chính sách cho DN.
Và cuối cùng về vấn đề kết nối DN, theo tôi cần làm thế nào để DN Việt Nam kết nối với các DN lớn trong chuỗi RCEP, qua đó giúp các DN Việt Nam tham gia sâu rộng vào các chuỗi giá trị.
15:56
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, so với CPTPP thì RCEP có ưu điểm gì hơn, lợi ích kinh tế của Việt Nam trong Hiệp định này có gì khác với Hiệp định đã có?
Ông Lương Hoàng Thái:
Xét về mặt cam kết, CPTPP là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có những thị trường mới như Canada, Mexico…là những thị trường trước đây ta chưa có hiệp định thương mại tự do hay với những thị trường truyền thống như Nhật Bản có cam kết rất cao trong các hiệp định thương mại tự do trước đây.
Đặc biệt, CPTPP là tiền đề để chúng ta tham gia vào nhóm hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, là bước chuẩn bị để chúng ta có được hiệp định thương mại tự do với EU, và tới đây hiệp định thương mại tự do với Anh Quốc. Vị trí như vậy thì CPTPP có cam kết cao hơn nên thách thức cao hơn, đặc biệt là thách thức trong cải cách thể chế của chúng ta do CPTPP đặt ra mức độ cao hơn.
Tuy nhiên, nếu chúng ta thành công trong việc cải cách thể chế như đơn giản hóa thủ tục kinh doanh thông qua việc tham gia những tiêu chuẩn cao của CPTPP thì chúng ta có thể có lợi ích mang tính lan tỏa. Vì thông qua việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi chúng ta có thể thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài, từ đó vươn lên tham gia những chuỗi cung ứng có giá trị cao hơn.
Về RCEP, theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB), do quy mô thị trường lớn hơn nên lợi ích về mặt kinh tế cho doanh nghiệp còn lớn hơn, lợi ích về khía cạnh cải cách kinh tế không như hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đánh giá cả hai mặt thì hai hiệp định này mang tính bổ sung cho nhau.
Theo nghiên cứu của nhiều cơ quan, đặc biệt cơ quan độc lập trên thế giới thì RCEP có lợi ích trực tiếp thậm chí còn lớn hơn, lợi ích gián tiếp thì CPTPP có lợi ích dài hạn thông qua việc chúng ta tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và cải cách thể chế.
16:00
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, một doanh nghiệp dệt may xuất khẩu hỏi rằng việc chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong RCEP được triển khai ra sao? Doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục như thế nào để được hưởng lợi về xuất xứ hàng hóa trong RCEP?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Để được hưởng ưu đãi thuế quan trong một Hiệp định thì chúng ta sẽ phải đáp ứng quy tắc xuất xứ, bởi đây chính là cái để xác định xem hàng hóa có đúng sẽ được hưởng ưu đãi hay không. Chính vì vậy, quy tắc xuất xứ đối với mỗi một Hiệp định thì nó có tầm quan trọng của nó. Vì vậy, đối với quy tắc xuất xứ ở trong RCEP thì để triển khai như ông Lương Thái đã nêu thì ngay sau khi hiệp định có hiệu lực thì chúng tôi cũng bắt tay vào để nội luật hóa với cam kết thì quy tắc xuất xứ.
Thật ra chúng ta cũng có kinh nghiệm với rất nhiều FTA, cho nên dù Hiệp định mới chỉ được ký kết và chưa phải hiệu lực, thì chúng tôi cố gắng xây dựng dự thảo thông tư để làm sao khi Hiệp định có hiệu lực thì thông tư cũng có thể đi vào nội lực và doanh nghiệp có thể được cấp giấy chứng nhận xuất xứ ngay từ ngày đầu.
Vậy đối với việc chứng nhận xuất xứ trong RCEP thì như tôi đã nêu ở phần trước, chúng ta sẽ áp dụng cơ chế cơ quan tổ chức cấp CEO sẽ cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho doanh nghiệp để được ưu đãi. Đồng thời, chúng ta cũng tuân thủ theo lộ trình về việc áp dụng tự chứng nhận xuất xứ. Đối với quy trình thủ tục chung đối với việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, thì tôi nghĩ rằng, đã là doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, có lẽ cũng thân thuộc với việc này, thì quy trình chung về cấp thì đã được quy định chung ở trong Nghị định 31.
Mỗi một Hiệp định sẽ có quy tắc xuất xứ riêng mà chúng tôi sẽ thực hiện thông tư để nội luật hóa. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, đối với quy tắc xuất xứ của RCEP thì doanh nghiệp không phải quan hệ nhiều với mức độ khó của nó. Bởi, chúng ta đã có sự quen thuộc cũng tương tự quy tắc xuất xứ trong các hiệp định Atiga, cũng như trong FTA ASEAN + khác.
16:05
Hỏi: Thưa bà Nguyễn Cẩm Trang, các giải pháp của các cơ quan chức năng trong việc tiếp tục tạo thuận lợi thương mại, cải cách thủ tục hành chính là gì để tận dụng hiệu quả RCEP?
Bà Nguyễn Cẩm Trang:
Đây là mối quan tâm lớn của Bộ Công thương. Thực tế, thời gian vừa qua, chúng ta đã thực hiện rất tốt công tác đàm phán các hiệp định thương mại tự do. Hiện nay, chúng ta có những đối tác thương mại tự do "phủ sóng" gần như khắp thế giới. Và trong các đàm phán này, chúng ta cũng luôn coi trọng mặt hàng nông sản, cố gắng đạt được ưu đãi thuế quan, lộ trình cắt giảm thuế quan thuận lợi nhất cho nông sản.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không đàm phán được tiêu chuẩn kiểm dịch để thâm nhập vào thị trường, nói cách khác, nếu nước bạn không mở cửa cho mặt hàng nông sản đó thì việc cắt giảm thuế quan sẽ bị vô hiệu hóa. Chính vì vậy, Bộ Công thương đã chú trọng phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - là cơ quan chủ trì trong công tác đàm phán mở cửa thị trường để đàm phán với phía nước bạn làm sao để mặt hàng nông sản được thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Vậy, đối với Trung Quốc, hiện nay chúng ta đã có chín loại quả được xuất khẩu chính ngạch. Trong quá trình phối hợp làm việc cùng Bộ NN và PTNT, chúng tôi cũng hiểu rằng, việc đàm phán mở cửa một loại quả được phép sản xuất chính ngạch sang nước bạn đòi hỏi nhiều thời gian (kéo dài từ 3-5 năm). Chính vì vậy, trong công tác đàm phán hiện nay, chúng ta đang xác định theo doanh mục ưu tiên các loại quả tiếp theo và sẽ sớm hoàn tất thủ tục.
Ngoài các loại quả, chúng ta cũng có nhiều mặt hàng khác như sữa, thạch đen cũng được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Nhiều mặt hàng chủ lực như vải, nhãn cũng đã được xuất khẩu vào thị trường có yêu cầu chất lượng cao như: Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc...
16:10
Hỏi: Thưa ông Lương Hoàng Thái, các nền kinh tế trong RCEP có mối tương đồng và cạnh tranh rất cao. Làm sao để hàng hóa Việt Nam có tính cạnh tranh hơn so các đối thủ trong nội khối. Đặc biệt, về phần sân nhà, Bộ Công thương đã tính đến các chính sách phòng vệ, hàng rào thuế quan để bảo vệ thị trường nội địa trước những đối thủ rất mạnh từ Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản chưa?
Ông Lương Hoàng Thái:
Như tôi đã báo cáo, Hiệp định RCEP là Hiệp định cam kết ở mức trung bình. Trong các nước tham gia Hiệp định, có cả các nước trình độ phát triển thấp hơn Việt Nam, thậm chí chậm phát triển theo tiêu chí của Liên hợp quốc. Chính vì vậy, khi thiết kế nên Hiệp định này, các nước ASEAN đều nêu quan điểm rất mạnh của mình và Hiệp định cần có tính linh hoạt để bảo đảm sự tham gia của các nước có trình độ phát triển khác nhau.
Một trong những cơ chế đó là cam kết ở góc độ vừa phải để các nước ở bất kỳ trình độ nào đều có thể tham gia được. Tức là, mức độ cam kết phản ánh trình độ của các nước tham gia.
Thứ hai, ngoài mức độ cam kết phù hợp với trình độ phát triển kinh tế thì Hiệp định cũng đưa ra cơ chế tự vệ đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi để phòng trường hợp khi các nước cắt giảm thuế quan cho Hiệp định, gây ra xáo trộn nền kinh tế trong nước, thì các nước có quyền "dâng" lại thuế lên trước đó áp dụng và theo cơ chế này, các nước có khoảng thời gian tám năm áp dụng. Tức là, bất kể một số nước có nền kinh tế phát triển kém mà mở cửa, nếu như cạnh tranh nước ngoài ở mức quá cao thì được dừng lại hàng rào thuế quan.
Cơ chế thứ hai, trong Hiệp định cho phép áp dụng những cơ chế mà được tổ chức thương mại thế giới cho phép, đó là công cụ: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp hay là biện pháp tự vệ thông thường. Những cơ chế này được áp dụng vĩnh viễn, từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Hiện nay, Bộ Công thương có đề án để tăng cường năng lực của chúng ta trong việc áp dụng những biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với chuẩn mực của quốc tế. Và với cam kết đó, cùng với kinh nghiệm hội nhập, như với đối tác ASEAN, chúng ta đã mở cửa từ năm 1996.
Rõ ràng, thời gian vừa qua, các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu làm quen và tới đây, khi Hiệp định được thực thi thì với những cơ chế cộng thêm như vậy, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng doanh nghiệp sẽ có khả năng vươn lên những thách thức đã đặt ra để hội nhập thành công không những ở khu vực mà còn ở thị trường có khả năng cạnh tranh cao.
16:16
Hỏi: Thêm một câu hỏi cuối dành cho ông Nguyễn Anh Dương, về phía doanh nghiệp, ông có những lưu ý về cả những nhóm ngành chúng ta có thế mạnh và những nhóm ngành doanh nghiệp phải chịu cạnh tranh?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Anh Dương:
Qua những tính toán giai đoạn trước đây, thì ở thời điểm hiện tại, chúng ta còn quá sớm để đánh giá cụ thể nhóm nào có thể được hưởng lợi tiềm năng và lĩnh vực có thể chịu thiệt hại.
Tuy nhiên, từ kết quả của việc thực hiện các FTA mà ASEAN đã có, ta thấy, về lợi ích, có những ngành được hưởng lợi tương đối tích cực là kinh tế thương mại, và ngành liên quan thiết bị máy móc, thiết bị điện… Đây là những nhóm có đà tăng trưởng cả về tốc độ và cả tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Đây cũng là lĩnh vực mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm trong thời gian tới vì lĩnh vực này có nhiều tiềm năng vì doanh nghiệp Việt Nam tham gia được chuỗi giá trị, sự chuyển động của cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh Covid-19, trong bối cảnh kinh tế thương mại Mỹ – Trung.
Ngược lại, có một số ngành chúng ta phải chịu khó khăn hơn trong cạnh tranh, bao gồm: các mặt hàng nông lâm thủy sản, một số mặt hàng dựa nhiều vào công nghệ thấp hoặc nguyên liệu thô như hóa chất, thủy sản, chế biến thực phẩm… Đó là những ngành có thể gặp phải rủi ro.
Cần lưu ý thế giới đang đối mặt với đại dịch Covid-19, quan hệ giữa các nền kinh tế trong RCEP có thể ảnh hưởng đến chuỗi giá trị. Vì vậy, câu chuyện thách thức liên quan đến chuỗi hàng hóa trong khu vực có thể chuyển thành cơ hội nếu chúng ta đón được nhà đầu tư phù hợp và nâng cao chất lượng hàng Việt Nam để có thể tiếp cận thị trường lớn hơn ở khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản.
16:20
Hỏi: Thưa ông Trịnh Minh Anh, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa phản ánh, doanh nghiệp rất quan tâm đến các lộ trình giảm thuế, cách chứng minh xuất xứ hàng hóa… trong RCEP. Kế hoạch tập huấn, tuyên truyền về RCEP thời gian tới sẽ được triển khai ra sao?
Ông Trịnh Minh Anh:
Chúng tôi đã có kinh nghiệm trong việc triển khai tất cả các hiệp định, việc này chúng tôi đã làm mười mấy năm rồi. Đầu tiên, bao giờ chúng tôi cũng công khai toàn bộ những cam kết trong đó cam kết giảm thuế về xuất xứ hàng hóa nói chung lên trên cổng thông tin điện tử của bộ hay của ban chỉ đạo.
Thứ hai, chúng tôi cũng sẽ tiến hành dịch và đăng tải cả tiếng Việt, tiếng Anh và cũng sẽ cân nhắc tới việc in ấn bởi vì hiện nay những hiệp định quan trọng thì bao giờ chúng tôi in ra thành sách phát cho miễn phí cho các doanh nghiệp, các địa phương. Tuy nhiên, tôi thấy, việc cầm cả cuốn sách nặng hẳn ba bốn cân lên thì rất khó nên việc đưa các tài liệu lên internet là rất cần thiết.
Bước thứ ba là chúng tôi đã có kế hoạch để có thể mở các lớp tập huấn, đặc biệt là tập trung vào những lĩnh vực mà doanh nghiệp yêu cầu, thí dụ như là quy tắc xuất xứ làm thế nào để chứng minh được xuất xứ vì đây là vấn đề quan trọng của bất kỳ hiệp định nào để doanh nghiệp có thể tận dụng được ưu đãi về thuế quan.
Liên quan đến vấn đề này, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương đã có một đường dây nóng sẵn sàng giải đáp mọi vấn đề trong đó có quy tắc xuất xứ, doanh nghiệp quan tâm có thể liên hệ đường dây nóng của Bộ Công thương và gửi câu hỏi liên quan cho Cục Xuất nhập khẩu, chúng tôi giải đáp thấu đáo mọi vấn đề.
Đối với Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế thì chúng tôi năm nào cũng gửi công văn cho các ban hội nhập địa phương, các hiệp hội để đăng ký để tổ chức những lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo. Tuy nhiên, thời gian đầu không thể tổ chức tất cả các tỉnh, các địa phương được cùng một lúc mà chúng tôi sẽ tập trung theo nhóm theo vùng miền, thí dụ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên hay là Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long,…
Hoặc là trong thời gian vừa qua, chúng tôi có kinh nghiệm tổ chức cho các hiệp hội ngành hàng để có sức lan tỏa lớn hơn, thí dụ như là về một ngành hàng nào đó thì doanh nghiệp tập trung hơn, người ta quan tâm đến ngành hàng dệt may, da giày hay thủy sản chẳng hạn thì tập trung giải thích như thế cho cặn kẽ, đúng và trúng hơn.
Kế hoạch chúng tôi làm bao giờ cũng rất bài bản, không riêng gì hiệp định này tất cả những hiệp định còn khó hơn, lớn hơn thì chúng tôi vẫn đã làm như vậy.
16:25
Nhà báo Nguyễn Ngọc Thanh:
Kính thưa đại biểu khách mời và bạn đọc của báo Nhân Dân điện tử, sau gần hai giờ đồng hồ, buổi tọa đàm với sự trao đổi, trả lời các câu hỏi của bạn đọc đặt ra về Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), chúng ta thấy rõ được ý nghĩa và hiệu quả mang lại của RCEP nếu như chúng ta chuẩn bị tốt.
Chúng ta cũng đã làm rõ được vai trò của nhà nước, bộ ngành địa phương trong dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp để đưa RCEP vào thực hiện hiệu quả. Đặc biệt là các doanh nghiệp trong vận dụng cơ hội việc vượt qua thách thức nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất cho bản thân doanh nghiệp và cho đất nước nói chung.
Thay mặt báo Nhân Dân điện tử, tôi xin cảm ơn các vị khách mời, các chuyên gia và bạn đọc. Mong tiếp tục nhận được nhiều câu hỏi của bạn đọc gửi đến báo Nhân Dân điện tử về RCEP và chúng tôi sẽ tiếp tục chuyển các câu hỏi của độc giả đến các chuyên gia, khách mời sau tọa đàm.