Diễn đàn Chủ nhật

Tính thuần Việt và bệnh "sính ngoại" của nhạc trẻ

Dạo một vòng quanh thị trường băng đĩa ca nhạc, sẽ thấy hàng loạt an-bum: The Unmakeup (Ðoan Trang), Non-stop (Hồ Quỳnh Hương), I do (Thu Minh), The new me (Thảo Trang), To day (Lam Trường), hay To the beat (Mỹ Tâm)... Ðây là những an-bum được đặt tiêu đề hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, mà nếu không "trưng" tên hay hình ảnh của ca sĩ Việt Nam trên bìa đĩa nhạc, người ta sẽ dễ dàng nhầm lẫn nó với bất kỳ một an-bum quốc tế nào khác. Rõ ràng, đời sống âm nhạc Việt Nam đương đại đã và đang xuất hiện tình trạng "sính ngoại" và lai căng đáng báo động, với việc sử dụng tràn lan các từ nước ngoài trong sáng tác.

Các từ ngoại quốc không chỉ được dùng để đặt tên cho an-bum, chương trình hay ca khúc, mà còn được các nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ ngày nay "bê" hẳn vào trong lời bài hát với tần suất xuất hiện tăng dần theo cấp độ. Nếu trước đây, các bài hát Việt chỉ thi thoảng xuất hiện những từ nước ngoài dễ hiểu, chẳng hạn: "Bye bye, ta hãy chia tay mình. Bye bye, hai đứa hai phương trời" (bài Chia tay của Phương Uyên), hoặc "Baby, I love you. Baby, I love you. Cuộc tình mình giờ sẽ không, không bao giờ phôi pha..." (bài Baby, anh yêu em của Ưng Hoàng Phúc), hay "Nếu thích em thì anh hãy nói Gủa ái nỉ" (bài Cô gái Trung Hoa của Lương Bích Hữu)... Nhưng giờ đây, có những bài còn xuất hiện nguyên cả câu tiếng Anh, thậm chí cả đoạn tiếng Anh, như "Oh first kiss, you make me happy, you make me crazy" (bài Nụ hôn bất ngờ của Mỹ Tâm), hay "Người yêu ơi. Do you wanna marry me? I can't live without you" (bài Marry me của Mr. Siro)...

Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập, việc tiếp thu và ứng dụng những cái hay, cái mới của thế giới vào các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và âm nhạc nói riêng là điều cần thiết, song tiếp thu ở mức độ nào và ứng dụng đến đâu lại là chuyện phải cân nhắc và thận trọng, bởi nếu chỉ cần quá đà một chút sẽ rất dễ đánh mất bản sắc riêng. Song rõ ràng, một số sáng tác hay phần trình bày của các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ ngày nay đã "chêm" thêm các từ nước ngoài một cách vô tội vạ, thậm chí đến mức "lạm phát", dù cho kho tàng tiếng Việt đang sở hữu đầy đủ những từ, ngữ đủ để thể hiện một cách chính xác nhất ý nghĩa mà các nhạc sĩ, ca sĩ muốn biểu đạt. Ðiều này khiến không ít người phải ái ngại đặt câu hỏi: là do các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ ngày nay không mặn mà với tiếng mẹ đẻ nên chuộng từ ngoại hơn, hay đây mới là cách để thể hiện độ sành điệu và khả năng bắt kịp xu hướng? Trong khi những người bạn ngoại quốc như các ca sĩ: Kyo York (Mỹ), Dalena (Mỹ), Lee Kirby (Anh) hay Hari Won (Hàn Quốc) luôn dành một niềm đam mê đặc biệt với tiếng Việt và có thể hát chuẩn xác, truyền cảm các sáng tác trữ tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Phạm Duy hay Phú Quang... thì một bộ phận nhạc sĩ, ca sĩ trẻ của ta lại chưa dành trọn tình yêu cho tiếng mẹ đẻ. Ðiều này dẫn đến việc hình thành những "đứa con lai" nửa tây - nửa ta trong làng nhạc Việt, và nguy hại hơn là làm xuất hiện trào lưu chạy theo dòng nhạc lai căng, giá trị thẩm mỹ thấp trong một bộ phận giới trẻ. Lứa tuổi "ô mai" là đối tượng công chúng dễ bị cuốn hút bởi những cái mới, thường thích chạy theo đám đông và hành động theo phong trào, cho nên đối với âm nhạc, họ chủ yếu xem thần tượng nhiều hơn nghe thần tượng. Miễn là do thần tượng trình bày thì dù là có chất lượng hay dở tệ, họ cũng đều sẽ tung hô nhiệt liệt. Ðương nhiên, ở những tụ điểm mà giới trẻ hay lui tới như quán bar, phòng trà, quán cà-phê hay siêu thị..., những bài hát này sẽ được tua đi tua lại liên tục. Nhà sản xuất thu được lợi nhuận vì tạo được hiệu ứng đám đông nên cứ thế cho ra đời tiếp những sản phẩm tương tự. Và đây có lẽ là nguyên nhân chính dẫn đến việc những bài hát "nửa nạc, nửa mỡ" vẫn luôn có "đất" để sống trong làng nhạc Việt.

Những sản phẩm âm nhạc có hơi hướng lai căng đã xuất hiện từ nhiều năm nay và ít nhiều gây ảnh hưởng đến thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của giới trẻ, song lại chưa được các nhà quản lý quan tâm. Bấy lâu nay, việc xét duyệt cấp phép cho ca khúc, an-bum hay chương trình âm nhạc chủ yếu mới chỉ dựa trên việc thẩm định nội dung có vi phạm thuần phong mỹ tục hoặc có làm ảnh hưởng đến hình ảnh đất nước, dân tộc hay không mà chưa chú ý tới tính thuần Việt trong ngôn ngữ sáng tác âm nhạc. Thiết nghĩ, để bảo toàn vẻ đẹp của ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, các cơ quan quản lý văn hóa cần có cái nhìn thật sự nghiêm túc và có những quy định chặt chẽ đối với việc cấp phép cho những sáng tác âm nhạc có sử dụng tiếng nước ngoài. Và hơn hết, đây là điều thuộc về ý thức, trách nhiệm và tình yêu của các nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam đối với ngôn ngữ dân tộc và nền âm nhạc nước nhà.

Có thể bạn quan tâm