Nhà thơ Hữu Loan:

"Tình đẹp, tâm thiêng, thơ sẽ sống mãi"

Vợ chồng nhà thơ Hữu Loan.
Vợ chồng nhà thơ Hữu Loan.

Trong căn nhà cấp bốn đơn sơ tại làng Vân Hoàn, thi sĩ Hữu Loan ngồi im lìm như một pho tượng sống trên chiếc ghế nhựa, mái tóc trắng bạc xòa lên hai bờ vai làm cho khuôn mặt hào hoa, đẹp lão của ông thêm vẻ trầm lắng. Chiếc áo bông khoác xuề xoà trên vai không giấu nổi một vóc hình vốn to cao, vạm vỡ.

Tình và tâm trong thơ

Được hỏi chuyện, thi sĩ nhớ lại cảm xúc khi ông Lê Văn Chính, giám đốc Công ty Vitek VTB, đến đặt 100 triệu đồng xin mua tác quyền bài thơ Màu tím hoa sim:

- Trước khi trao bản quyền bài thơ tôi suy nghĩ nhiều lắm. Phải mấy tuần sau tôi mới quyết. Lâu nay có nhiều người trong nam ngoài bắc kể cả người nước ngoài tìm gặp xin tôi chép lại bài thơ, nay nó được tung hẳn ra một cách đàng hoàng cũng là một điều vui. Một điều vui khác, lần đầu tiên vợ chồng tôi có tiền chia đều cho mười đứa con mỗi đứa một ít. Đặc biệt chu cấp vốn cho những đứa con nghèo làm ăn, thứ đến sẽ trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài sẽ mang tên Thơ Hữu Loan.

Nói đoạn, ông đọc lại cho tôi nghe toàn bộ bài Màu tím hoa sim bằng giọng quê mạch lạc, giàu cảm xúc và trầm ấm của người tỉnh Thanh. Đến những từ cuối cùng của bài thơ, khóe mắt ông hoe đỏ. Không dám bàn luận gì nhiều về những câu chữ tài hoa, tôi hỏi ông một chi tiết rất dễ thương của bài thơ:

- Nàng không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn có thật hay không lời của cô gái 16 tuổi?

- Thật chứ. Cô ấy tên là Lê Đỗ Thị Ninh quê ở làng Đình Hương, nay là vùng Sặt thuộc huyện Đông Sơn.

Kể cũng lạ, tôi là anh học trò nghèo từ đồng cói Nga Sơn tự học, thi đậu tú tài rồi đi làm gia sư trong gia đình cô Ninh để kiếm gạo, khi cô ấy đã đẹp nổi tiếng trường nữ sinh Thanh Hóa. Không ngờ cô con gái nhà giàu nhưng lại đem lòng anh giáo nghèo là tôi.

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không “môn đăng hộ đối” một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ cô ấy ngấm ngầm “soạn kịch bản”. Một lần tôi bàn việc may áo cưới cô ấy gạt đi, rằng: Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả.

- Còn bốn từ anh chồng độc đáo là sao ạ?

- Cũng là câu nói của cô ấy. Vì hồi đó tôi học giỏi, làm thơ hay và lại đẹp mã nữa. Độc đáo quá đi chứ! - ông cười vui, rung rung cái miệng móm mém.

Như sống lại với một thời trai trẻ, thi sĩ Hữu Loan thổ lộ:

- Cô Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi cô bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa năm 16 tuổi cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.

Bài thơ được anh lính Vệ quốc quân viết rất nhanh bởi “nỗi nhớ, niềm đau và tình thương người vợ trẻ đã tự “viết” sẵn từng quãng thơ trong đầu anh rồi. Đặt bút là câu thơ hiện hình lên.

“Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì”. Nghe ông nói, bất chợt tôi ngước nhìn chữ “Tâm” do ông viết bằng Hán tự khá đẹp treo trên bức tường chính giữa bàn thờ đang thoảng bay mùi hương thơm.

Thơ trong đời

- Dù sao thì chuyện cũ Hữu Loan đã lùi về quá khứ. Tôi đã trải đủ nghề kiếm sống từ nghề đi xe thồ, xe cút kít, vác đá, mò cua, bắt ốc. Không thể từ nan việc gì mới đủ sức nuôi mười đứa con sáu trai, bốn gái sau khi tôi làm bạn với bà Nhu đây này.

Bà Phạm Thị Nhu (kém chồng 20 tuổi) ngồi cạnh thi sĩ quay sang hỏi tôi:

- Thế chú đã nghe bài thơ Hoa lúa ông ấy viết nịnh tôi chưa?

Tôi thưa mới chỉ nghe loáng thoáng qua một bản nhạc đã lâu lắm rồi, còn nguyên gốc bài thơ thì bây giờ mới xin nghe.

Ông đọc:

- Em là con gái đồng xanh/tóc dài vương hoa lúa/đôi mắt em mang chân trời quê cũ/giếng ngọt, cây đa/anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm/nhạc quê hương/say đắm/trong lời em từng lời/tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một/em ca giữa đồng xanh bát ngát/anh nghe quê ta sống lại hội mùa/có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ/có dân ca quan họ/trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ/cầm tay trao một miếng trầu/yêu nhau cởi áo cho nhau/về nhà dối mẹ qua cầu gió bay/Quê hương ta núi ngất, sông đầy/bát ngát làng tre, ruộng lúa/em gái quê hương mang hình ảnh quê hương/xa em năm nhớ, gần em mười thương/còn bàn tay em còn quê hương mãi/em mang nguồn ân ái/căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh/em gái quê si tình/chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn… Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt/quê hương ta ơi từ nay càng đẹp/ tình yêu ta ơi từ nay càng sâu/Ta đi đầu sát bên đầu/mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.

Hoa lúa được ông xem là bài thơ tặng bà vợ sống, viết năm 1955, sáu năm sau bài thơ Màu tím hoa sim tặng bà vợ đã qua đời.

Sau khi cắm thêm một nén hương trên bàn thờ, thi sĩ tiếp tục câu chuyện:

- Tôi làm thơ không nhiều, toàn bộ gia tài thơ có khoảng 40 bài nhưng bài nào cũng được khen hay. Thơ tôi không giống ai, ngắt câu, lên xuống dòng tùy ý. Vậy mà lạ: đọc nghe lúc nào cũng mới.

Nói rồi ông đọc bốn câu về lúa, về trăng, về người du kích và đồn giặc Pháp trong bài Yên Mô dài 37 câu viết năm 1947:

-...Đêm nhúng sương trăng soi/ ngày phơi bông vàng nắng/... Anh làm du kích Yên Mô/ nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồn. Hồi còn sống cụ Đặng Thai Mai yêu những câu này lắm nhé…

Thường ngày thi thoảng căn nhà vắng lặng giữa vườn cây trái của ông bà Hữu Loan lại vui lên bởi những đoàn học sinh giỏi trường chuyên Lam Sơn về hỏi chuyện thơ văn kim cổ.

Hè năm 2003 dân làng Vân Hoàn tưởng nhà ông bà Hữu Loan có đám cưới vì thấy hơn 30 xe máy, mỗi xe hai người về dựng chật cổng. Hóa ra đó là 60 thầy cô giáo và sinh viên Đại học Quốc gia từ Hà Nội rủ nhau về nghe tác giả Màu tím hoa sim nói chuyện văn học và một số chi tiết trong bài thơ nổi tiếng. Hôm ấy thầy trò ngồi chật nhà, chật sân nghe ông già ngồi nói chuyện suốt hơn hai giờ. Mới đây có một cô giáo nghèo cuối huyện “đi vòng thúng hết xã này sang xã khác hỏi nhà ông Hữu Loan không chỉ để tặng quà mà còn vì nghe tiếng nhà thơ ở cùng huyện nhưng chưa được biết mặt”.

Hôm nay tôi cũng như cô giáo nghèo ấy rời quốc lộ 1A, rời đường 13, men theo khúc sông Bó Văn, rẽ dưới chân núi Vân Hoàn, khẽ tay nhấc hai cánh cổng tre phía ngoài và hai cánh cổng sắt phía trong để vào nhà thi sĩ Hữu Loan; để được nghe bài Màu tím hoa sim do chính tác giả đọc cùng bầu tâm sự của một nhà thơ gần bước sang tuổi 90 mà vẫn có những phút giây rung động của chàng trai trẻ tuổi đôi mươi…

------------------------------

Màu tím hoa sim

Nàng có ba người anh đi bộ đội
những em nàng
có em chưa biết nói
khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
tôi mặc đồ quân nhân
đôi dày đinh
bết bùn đất hành quân
nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến chinh
mấy người đi trở lại
lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết người trai
khói lửa
mà chết người gái nhỏ hậu phương
tôi về
không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh vây quanh.

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim.

Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
ba người anh từ chiến trường Đông Bắc
được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
gió sớm thu về rờn rợn nước sông.
đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa:
“áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”.

Ai hát vô tình hay ác ý với nhau
chiều hoang tím có chiều hoang biết
chiều hoang tím tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa:
“áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...”.

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
tím tình ơi lệ ứa
ráng vàng ma

sừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím.

Tôi ví vọng về đâu?
Tôi với vọng về đâu?
áo anh nát chỉ dù lâu...

----------------------

HỮU LOAN

(*) Bài thơ do chính nhà thơ Hữu Loan đọc tại nhà ông, Vũ Toàn ghi lại ngày 12-12-2004 

Có thể bạn quan tâm