Chân dung văn học

Nhà thơ Ngô Quân Miện - Một hồn thơ đôn hậu

Nhà thơ Ngô Quân Miện - Một hồn thơ đôn hậu

Ông là nhà thơ. Tâm hồn ông là tâm hồn thi sĩ. Ấy vậy, ông lại có truyện ngắn rất ám ảnh tôi - truyện "Cháy nhà đêm ba mươi tết". Cốt truyện đơn giản. Một gia đình ở làng quê, trong đêm ba mươi tết hồi hộp đón chờ năm mới, thì bỗng xảy ra hỏa hoạn cháy nhà. Đám cháy làm nhốn nháo cả xóm làng. Nguyên do đám cháy, bởi sự sơ xuất của người con dâu, hót tro bếp còn tàn lửa, không tưới nước, lửa tro bén mái nhà. Chị vốn là người phụ nữ lam làm, chịu đựng và cẩn thận. Vậy sao chị lại để sơ xuất gây ra đám cháy tệ hại này? Đấy là cả nỗi lòng, cảnh ngộ của chị đêm ba mươi tết. Chồng chị đang làm ăn ở xa nhà, trong nam, anh đang mê muội cô gái khác, bỏ mặc chị còm cõi ở quê nhà. Mặc người chồng tệ bạc, bỏ rơi, chị vẫn giữ trọn đạo làm vợ, làm dâu. Và cái đêm ba mươi, sau giờ phút dọn dẹp nhà cửa, chị chợt cực thân về cảnh đơn lẻ của mình mà dẫn tới sơ xuất kia chăng?

Câu chuyện có chừng hơn chục trang sách, mà lại ám ảnh tôi đến lạ lùng. Tôi như thấy người con dâu trong truyện kia, thấp thoáng như bóng dáng chị gái của tôi. Ấy là những người phụ nữ làng quê lam làm chịu thương chịu khó, sinh ra như chỉ biết chịu đựng. Họ cắn răng chịu đựng. Người chồng đơn bạc mấy, họ cũng chẳng dám một lời kêu ca. Có lẽ đấy là sản phẩm của thời phong kiến tồi tệ, người phụ nữ đi làm dâu nhà người như đi làm người ở một cách tự nguyện. Ngày tết, họ chỉ có niềm vui giản dị, được tắm gội bằng nước lá mùi, thay quần áo mới để chờ trưa mồng một, xin phép bố mẹ chồng về chúc tết bên nhà mẹ đẻ.

Truyện có ý ngầm phê phán anh chàng ruồng rẫy bỏ vợ ở làng quê kia. Song, lại như bài ca tình thương yêu nhân ái giữa con người với con người. Trong làng quê ấy, dưới mái nhà tranh đạm bạc ấy, là tâm hồn thương yêu nhuần nhuỵ giữa con người với con người, không một chút ghẻ lạnh kiểu "mẹ chồng nàng dâu" hoặc "chị dâu em chồng" thường thấy ở đâu đó. Chất nhân văn của truyện ngắn này là ở đây. Tác giả như luôn muốn khơi gợi cái vẻ đẹp vốn hiếm hoi và mỏng manh trong đời sống. Và có lẽ, cuộc sống có lý tồn tại, vì cái đẹp hiếm hoi và mỏng manh kia vẫn còn chỗ để tồn tại chăng?

Ngô Quân Miện vốn là nhà thơ. Vì ông là nhà thơ, nên ông luôn phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp vốn mong manh trong cuộc sống đầy bất trắc này.

Có bài thơ của ông, mà những người thợ xây dựng những năm đầu xây dựng XHCN ở miền bắc nước ta, hầu như ai cũng thuộc. Đấy là bài thơ "Tặng anh công nhân xây dựng".

Anh đi xây dựng những công trình.
Mùa lại qua mùa, ngủ lán gianh
Những lúc tường cao lên ngói đỏ
Là lúc ba-lô lại khởi hành.

Bài thơ, ông viết từ năm 1960, trong chuyến đi thực tế vùng công nghiệp Cầu Đuống, Gia Lâm, đã phản ánh đúng tâm trạng hồ hởi, sự chịu đựng, hy sinh của những người đi xây dựng đất nước. Câu thơ không hoa mỹ, tứ thơ dung dị, vậy mà cái tình lại cứ ngân nga với người đọc. Phải ghi nhận, bài thơ đã tác động rất nhiều đến lớp công nhân xây dựng ngày đó.

Ngay phút đầu gặp ông, tôi đã cảm phục ông bởi tính cách nhẹ nhàng, ân cần, đôn hậu. Đấy là những năm đầu của giai đoạn chống Mỹ, ông là người đỡ đầu rất nhiều các cây bút trẻ.

Trang thơ trên tờ báo ông phụ trách, thường tập hợp đông đủ các tác giả xa gần. Từ Trinh Đường, Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, Tạ Vũ, Lưu Quang Vũ, Thanh Tùng, Đào Cảng, Trần Nguyên Đào, Trúc Thông... đến Xuân Quỳnh, Thuý Bắc, Phan Thị Thanh Nhàn... Điều đặc biệt, là ông dung nạp được mọi tính cách của anh em viết. Bất kể, dù là tác giả nổi tiếng lâu năm, hoặc cây bút mới chập chững vào nghề, ông đều có tình cảm chân tình, trân trọng.

Trong giới sáng tác, ai cũng ghi nhận mối quan hệ thâm giao bộ ba "Quang Dũng - Trần Lê Văn - Ngô Quân Miện". Ba con người, ba tính cách sống, ba phong cách sáng tác, vậy mà lại có điểm giống nhau ở cốt cách đôn hậu, chân tình. Về sáng tạo nghệ thuật, mỗi người có đóng góp riêng. Vẻ đẹp trong văn thơ của Ngô Quân Miện là cái đẹp nhỏ nhẹ, đằm thắm và lắng đọng. Ông có những bài thơ hay về quê hương - làng Khê Thượng, Xứ Đoài của ông:

Da diết thế, cái hương nồng của đất
Tóc thôi xanh, ngả trắng vẫn nguyên mùi
Của đám cỏ gà bờ ruộng gối đầu tôi
Mùi rơm rạ, cây hăng và đất ải.

(Làng)

Hình ảnh người cha ghi đậm trong thơ ông với những câu thơ giản dị, đáng yêu:

Cha tôi lều chõng long đong quá
Lúc Sơn - Nam hạ, lúc non Đoài
Đất cằn chẳng đủ nuôi thầy khóa
Dạy trẻ đôi vần thêm sắn khoai.

(Ống quyển của cha tôi)

Hoặc tình cảm riêng tư, sâu lắng:

Mẹ tôi đã khuất. Tôi nghe thấy
Tiếng mẹ tôi trong tiếng các dì.

(Quê ngoại)

Ông lại có những câu thơ bảng lảng, ngất ngây bất chợt:

Em đi áo mỏng phô bày
Da thơm một thoáng giữa ngày dịu xanh.

(Mùa hoa loa kèn)

Ông có những bài thơ hay viết về bạn bè ông. Đấy là những người cùng chất sống như ông. Có thể họ không được gặp may mắn lắm trong cuộc sống, song họ chẳng bận tâm lắm về việc đó. Cái chính và cần với ông và bạn bè ông, là tình yêu cuộc sống. Hầu như trong thơ ông, không thấy một câu chữ nào thốt lên oán thán hoặc trách móc cuộc sống, mặc dù đời sống riêng tư của ông không kém phần lận đận.

Ông là người ảnh hưởng của hai luồng văn hóa Nho học và Tây học. Người cha của ông, là ông đồ nho, từng lều chõng đi thi đây đó. Ông lại có người nhà học trường Bưởi, thường xuyên đem sách báo chữ Pháp về cho ông đọc. Ông có theo học trường Canh nông, ra làm công chức ở Sở Canh nông Bắc Kỳ tại Hà Nội. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông sớm khăn gói theo kháng chiến lên Việt Bắc làm việc. Rồi theo sự phân công, năm 1951, ông chuyển sang làm báo Độc lập . Đời ông gắn bó với nghề làm báo từ đó.

Ông làm biên tập văn học ở báo. Rồi được tín nhiệm cử làm Tổng biên tập báo. Dù làm công việc này nọ, nhưng tính cách của ông thì không thay đổi. Vẫn nhỏ nhẹ, ân cần và khiêm nhường.

Tôi cảm thấy, như ông lặng lẽ ngay trong cả gia đình riêng của mình. Người vợ và các con ông cũng hưởng tính ông, hiền lành, lặng lẽ. Đã nhiều lần quan sát, ở cuộc họp hay hội nghị nào đó, tôi chỉ thấy ông chọn cho mình chỗ ngồi ở hàng ghế giữa hoặc hàng ghế cuối. Hình như ông ngại ngồi hàng ghế đầu, mặc dù cương vị ông, tuổi tác của ông nhẽ ra ngồi ở chỗ đó. Đăng đàn diễn thuyết thì ngại rồi. Ngay với bạn bè thân hữu, ông cũng kiệm lời. Trong cuộc hội ngộ thân tình lắm, thỉnh thoảng ông có góp vào vài câu vui, hóm hỉnh. Ông khiêm nhường quá ư? Cũng đúng. Hay ông tự thấy vị thế của mình như thế? Hay cái tư chất văn hóa ở bên trong con người ông, tạo cho ông sự bình thản, tự tin và khiêm nhường đó?

Tôi nhận thấy, đó là cái bình thản, tự tin của người từng trải. Cái tư chất này, thấm sâu trong từng trang sách của ông. Ông viết:

Chưa rộ mùa hương, đã cuối mùa
Dám đâu còn mất giữa xa xưa
Xin làm bụi phấn hoa trăn trở
Vi lượng trong vô lượng mịt mờ.

(Với thơ mình)

Làm sao được, cuộc sống vốn có quy luật riêng của nó. Trong đăng đàn văn chương bao kẻ khua chiêng gõ mõ quảng bá tên tuổi sự nghiệp của mình; vậy mà ông chỉ lặng lẽ khiêm nhường vậy thôi. Cái bụi phấn hoa dù lặng lẽ đấy, nhưng ai bảo nó không có cái trăn trở, xôn xao? Không có vị thế riêng trong cõi kiếm tìm cái đẹp vốn vô cùng tận của kiếp người thi sĩ?

Ông là người chân thật và đôn hậu, nên con người ông không giấu được trong những con chữ. Bài thơ "Tạ lỗi các bạn văn" ông viết:

Bạn bè tặng sách cao như núi

Tôi tựa lưng vào hứng gió tươi

Câu thơ mình viết như tro bụi
Chẳng dám phong bao gửi tạ người

Thực ra, ông là một người có tâm hồn non tơ, dễ rung động. Mọi sự bon chen, tranh giành hoặc tự quảng bá ầm ĩ như xa lạ đối với ông. Vì thế, ông luôn có con mắt thơ trong veo.

Trong sự nghiệp sáng tác văn học của ông, mảng viết cho thiếu nhi của ông có phần đóng góp đáng kể. Các tập truyện "Bay chuyền" 1976, "Hoa đồng" 1978, "Ngựa con đi chơi xuân" 1978, "Chú bé nhặt bông gạo" 1994, là những tập truyện của ông viết cho thiếu nhi chan chứa cảm xúc yêu thương. Có lẽ ông luôn nhìn cuộc sống bằng con mắt đôn hậu, nên bất kỳ việc nào, cảnh nào cũng gợi mở cho ông những cảm xúc yêu thương đó sao?!

Người đọc không dễ quên những cảnh những người trong những trang văn của ông. Có thể chỉ là mấy cô cậu chạy nhặt bông gạo cùng bà già trong trưa nắng, để mùa đông bà nhồi gối cho các cháu. Hoặc mấy em nhỏ ra lò gạch, lấy đất nặn đồ chơi, nặn những quả chuông đất, đem nung qua lửa, treo lên cây nêu ngày tết, gió thổi qua, chuông đất kêu loong coong. Hoặc mấy chú chim bói cá có mỏ dài, tài lao bắt cá như những võ sĩ phóng lao. Hoặc chú ngựa non mải đi chơi, gặp ngựa đá trước sân đền, ngựa đá kể chuyện xông pha chiến trận một thời cho ngựa con nghe.

Rất cảm động là chuyện các em học sinh ở làng quê đi kiếm hoa mừng cô giáo nhân ngày 8-3. Ở quê, không có hoa hồng, hoa dơn, hoa viôlét... Các em rủ nhau đi kiếm hoa đồng. Nào hoa dong riềng, hoa cúc áo, hoa cối xay, hoa rau sam, hoa yên chi, hoa khoai lang... Những bông hoa đồng, như những tấm lòng thơm thảo của các em với cô giáo kính yêu. Văn chương, bằng sự giản dị và chân tình, đã đánh thức và nâng dậy bao tâm hồn cao đẹp của con người". Tôi nghĩ, văn thơ của nhà thơ Ngô Quân Miện như những bông hoa cúc chi. Ngỡ nhỏ bé đấy, nhưng lại có vẻ đẹp sắc mầu và hương vị riêng, có đời sống riêng, không dễ gì lẫn được.

Nhà thơ Ngô Quân Miện, theo tuổi ta, năm nay ông đã tám mươi tuổi. Tuổi cao, sức vóc lại nhỏ thó, nhưng công việc sáng tạo ông chưa hề ngơi nghỉ. Không còn nhiều dịp đi đây đó như ngày trước, ông càng tranh thủ thời gian đọc, viết.

Ông vẫn mê hai mảng sáng tác mà ông đã theo đuổi: thơ trữ tình và viết cho thiếu nhi. Ông tâm sự "ở đó, tôi muốn có những khám phá, muốn hòa mình vào và tìm thấy những niềm vui của mình...". Ngoài sáng tác, ông còn dành thời gian cho dịch sách. Ông quan niệm, dịch là vừa dịch để vừa học. Mảng văn học Pháp đã mở cánh cửa tâm hồn ông. Những trang sách dịch của ông, lấp lánh chất văn.

Ông vẫn giữ được niềm vui nhỏ nhẹ, hàng tuần mong gặp gỡ bạn bè sáng tác cùng trang lứa. Ông là người xứ Đoài. Bạn bè văn nghệ xứ Đoài vẫn luôn gặp gỡ thăm hỏi ông. Ông yêu xứ Đoài quê hương ông. Thỉnh thoảng, ông lại về thăm làng Khê Thượng quê ông. Cái làng nhỏ nằm bên bờ sông Đà và chân núi Tản, vừa mơ mộng vừa hùng vĩ như tiếp nguồn cảm xúc cho ông. Kỷ niệm tuổi thơ của ông với cố thi sĩ Tản Đà - người cùng làng, người khởi hứng cảm xúc cao đẹp để ông dấn thân vào con đường văn chương, như ngày một lấp lánh, mênh mang.

Và ông lặng lẽ viết. Những câu chữ trong văn thơ của ông, lặng lẽ khiêm nhường, như những tế bào của con người ông.

7-2004
(Văn nghệ)

Tên khai sinh: Ngô Quân Miện, đồng thời là bút danh, sinh ngày 27-9-1925, tại Khê Thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Hiện ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1979).

* Trước Cách mạng tháng 8-1945, nhà thơ Ngô Quân Miện học trung học canh nông, cán bộ kỹ thuật canh nông. Sau hòa bình 1954, ông học tại chức khoa Ngữ văn. Ông thường viết báo, viết văn từ trong kháng chiến chống Pháp. Từng làm Tổng biên tập báo Độc lập (Cơ quan của Đảng Dân chủ Việt Nam), Ủy viên BCH Hội Nhà báo Việt Nam khóa IV. Có thơ và truyện ngắn in trên báo Tin Mới từ năm 1939, lúc mới 14 tuổi (bài thơ Ngoài vườn lan và truyện ngắn Hy sinh, viết cho thiếu nhi). Ngoài thơ, ông còn viết truyện ngắn, dịch văn học qua tiếng Pháp.

* Tác phẩm đã xuất bản: Ngày cưới (truyện ngắn, 1961); Bông hoa cỏ - mặt gương soi (thơ, in chung, 1981); Đất ngọn nguồn (thơ, in chung, 1982); Bóng núi (thơ, 1993); Gương mặt Hồ Tây (bút ký, in chung với Quang Dũng, Trần Lê Văn, 1979); Hoa đồng (truyện thiếu nhi, 1978); Bay chuyền (thơ thiếu nhi, 1976); Bông hoa lạ (truyện ngắn, 1982); Chú bé nhặt bông gạo (1994); Đôi cánh sẻ đồng (1989); Mưa nắng tình yêu (dịch của André Maurois, 1990); Maria tới Paris (dịch chung với Tô Tưởng, 1993); Con mèo ú tim (dịch chung với Bùi Hiển, Ngô Văn Phúc, 1996).

- Nhà thơ đã được nhận giải ba thơ tạp chí Văn nghệ (1960 - 1961), với chùm bài Qua cầu sông Đuống Tặng anh công nhân xây dựng; Giải ba văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1994); với tập truyện Chú bé nhặt bông gạo.

Có thể bạn quan tâm