Tìm nước ngầm cho vùng núi cao

Tìm nước ngầm cho vùng núi cao

Ðảng, Nhà nước ta và nhiều tổ chức quốc tế từ nhiều năm nay đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho việc giải quyết nước cho các huyện vùng cao của Hà Giang, Cao Bằng. Hàng vạn chiếc lu chứa nước mưa và bể chứa đã giúp hầu hết người dân nước sinh hoạt trong thời gian mưa và sau đó ít ngày. Ðã có vài hồ treo thành công trong việc tích nước mưa, nhưng đến nay cũng đã hỏng, và thực tế chúng không có tác dụng chống hạn chắc chắn, vì chỉ qua vài tháng không mưa thì nước cũng bốc hơi hết chứ chưa cần người sử dụng. Làm thế nào để cấp nước sinh hoạt, sau nữa là nước tăng gia sản xuất lâu dài, bền vững cho vùng cao là bài toán cần phải giải quyết.

Việc xây dựng các đường dẫn nước tự chảy từ các mỏ nước sẽ rất lợi, nếu các mỏ nước tồn tại lâu dài. Khi đó nước mỏ chỉ cần xử lý là dùng được. Tuy vậy, nhiều công trình dẫn nước mỏ cũng cạn kiệt về mùa khô. Mặt khác khi mực nước tĩnh liên tục bị tụt thấp bởi nhiều lý do, thì việc đầu tư lớn để lấy nước mỏ là không bền vững. Nguyên Chủ tịch nước Trần Ðức Lương, khi còn là Tổng cục trưởng Ðịa chất, khi đi qua vùng Ðồng Văn, Mèo Vạc đã ước ao khoan tìm được nước ngầm cho người dân vùng này.

Năm 2005, Liên hiệp Khoa học Ðịa chất và Du lịch thuộc Tổng hội Ðịa chất Việt Nam đã lần đầu  thực hiện được ước ao đó bằng việc thăm dò và xây dựng thành công bốn giếng khoan tại sườn núi đá vôi thuộc huyện lỵ Ðồng Văn, tỉnh Hà Giang. Bốn giếng khoan này có tổng lưu lượng hơn 650 m3/ngày đêm, đủ cấp cho 5.000 - 6.000 dân sinh hoạt với mức 100 m3/ngày. Nước dùng cho sinh hoạt không cần xử lý. Công trình đã được Chủ tịch nước gửi thư khen, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cấp bằng khen. Nhưng, để được bốn giếng khoan, Liên hiệp phải thực hiện 19 lỗ khoan thăm dò và nhiều công việc kỹ thuật khác. Công việc được làm theo Hợp đồng kinh tế khoán gọn, bên B phải chịu rủi ro 100% nếu không tìm được nước, hai năm rồi, đến nay cũng mới được thanh toán gần 13% chi phí khoán gọn. Việc thanh toán chậm đã không cho phép Liên hiệp tiếp tục phát huy kết quả nêu trên. Từ thành công này, chúng tôi thấy tìm nước cho các cao nguyên đá vôi là rất khó, rủi ro rất cao, khó hơn tìm vàng và đá quý. Bởi vì vàng, đá quý và các khoáng sản kim loại có quy luật thành tạo và phân bố giống nước ngầm, sau khi thành tạo, chúng được tồn tại gần như tại chỗ, còn nước ngầm thì dễ dàng bị ngấm đi nơi khác. 

Sau gần 20 năm mò mẫm kết hợp những điều đã học, bổ sung nhiều điều trong thực tế bằng cái giá tự trả nhiều tỷ đồng, chúng tôi đã thăm dò và xây dựng được 120 giếng khoan cho nhiều vùng mà các người đến trước không tìm được như: khu công nghiệp Dung Quất, cao nguyên Ðồng Văn, miền tây tỉnh Ninh Thuận, Sơn Tây, Xuân Mai, Hòa Bình... Vấn đề nước sinh hoạt sẽ ngày càng khó khăn. Ðể góp phần vào sự nghiệp tìm nước cho vùng cao nguyên đá vôi Hà Giang, Cao Bằng nói riêng, nhiều nơi khác nói chung, Liên hiệp Khoa học Ðịa chất và Du lịch thuộc Tổng hội Ðịa chất Việt Nam xin mang các điều rút ra được trình bày để mọi người cùng xem xét, ứng dụng.

Theo chúng tôi, nước ngầm ở trung du và miền núi có nguồn gốc nội sinh là chủ yếu, chúng chỉ được thành tạo tại giao điểm của các đứt gãy kiến tạo, thường là bốn đứt gãy và tại đó phải có các hoạt động đi kèm của xâm nhập nông á núi lửa trẻ (nước có nguồn gốc á núi lửa). Ðối với vùng cao nguyên đá vôi, tiền đề địa chất trên còn đòi hỏi các khối xâm nhập nông á núi lửa trẻ này phải đủ lớn để sức mạnh và các vật liệu của nó đủ lấp đầy các hang hốc, khe nứt, không cho nước đã được thành tạo chảy mất đi. Ðây là lý do làm cho việc tìm nước nói riêng, nước ngầm nói chung, cho vùng cao nguyên đá vôi khó hơn tìm khoáng sản quý hiếm.

Khi đã hiểu đúng bản chất của nước ngầm thì việc tìm ra chúng là không khó, nếu ở vùng đó có tồn tại. Trong đó, công tác địa chất để tìm các giao điểm của các đứt gãy kiến tạo và công tác địa vật lý là quyết định cho thắng lợi của việc thăm dò nước ngầm. Có thể còn nhiều tranh cãi, nhưng chúng tôi đã thắng lợi đúng bằng lý thuyết tìm được nêu trên. Ðưa ra công luận vấn đề này, chúng tôi muốn người dân những vùng không có nước đỡ khổ sớm hơn, đồng thời Nhà nước và các địa phương chỉ phải chi tiền vào việc có ích cho dân.

MỌI dự án và phương án thăm dò nước đều chỉ có giá trị khi tìm ra nguồn nước sử dụng được. Việc thăm dò và xây dựng các giếng khoan cho trung du và miền núi rủi ro rất cao, nên giao việc bằng cách khoán gọn, có nước sẽ được tiền. Làm như vậy, người làm thuê sẽ cố gắng tìm được nước để lấy tiền, còn Nhà nước chỉ phải trả tiền khi các giếng khoan có nước khai thác được.

Có thể bạn quan tâm