Tìm hướng phát triển thị trường các-bon

Là một thành phố năng động và phát triển nhanh chóng, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối mặt với nhiều thách thức về môi trường, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm không khí (phát thải hơn 60 triệu tấn CO2/năm, chiếm từ 18-23% cả nước). Việc triển khai thị trường các-bon trong thời gian tới sẽ mang lại nhiều lợi ích cho thành phố, nhất là thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
0:00 / 0:00
0:00
Một góc Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay.
Một góc Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay.

Ở khu vực Đông Nam Á, hiện chỉ có Indonesia đã triển khai thực hiện thị trường các-bon bắt buộc cho ngành năng lượng từ tháng 2/2023. Việt Nam đang trong giai đoạn chuẩn bị thí điểm từ năm 2025 và sẽ chính thức vận hành từ năm 2028 theo Nghị định 6/2022/NĐ-CP về quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon.

Theo các chuyên gia, việc triển khai thị trường các-bon vào năm 2028 sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, thị trường các-bon sẽ là công cụ hiệu quả giúp giảm thải khí nhà kính hướng đến đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, góp phần cải thiện chất lượng môi trường và nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Thị trường các-bon sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sử dụng hiệu quả hơn các đầu vào sản xuất; từ đó, góp phần gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, việc phát triển thị trường các-bon tự nguyện sẽ giúp thành phố tạo nguồn thu đáng kể thông qua phát hành và bán tín chỉ các-bon từ các dự án giảm phát thải khí nhà kính từ các nguồn năng lượng dồi dào như mặt trời, gió và rác thải.

Thị trường các-bon cũng sẽ tạo ra cơ hội thu hút đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ môi trường, thu hút nguồn tài chính khí hậu quốc tế… thúc đẩy phát triển kinh tế xanh và tạo nhiều việc làm mới, giúp thành phố nâng cao vị thế quốc tế trong nỗ lực chung chống biến đổi khí hậu...

Từ tháng 10/2023, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành cơ chế thuế các-bon xuyên biên giới (CBAM) nhằm bảo đảm sự công bằng trong cạnh tranh thương mại quốc tế và thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính. CBAM sẽ áp dụng thuế đối với các sản phẩm nhập khẩu vào EU dựa trên lượng khí thải khí nhà kính (trực tiếp và gián tiếp) phát thải trong quá trình sản xuất. Điều này được dự báo sẽ tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU trong thời gian tới.

Do đó, cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để có thể phân tích đa chiều tác động của CBAM và tận dụng lợi thế, phát triển các sáng kiến nhằm tăng tốc lộ trình đạt mục tiêu trung hòa các-bon cho Việt Nam, cũng như cho Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo sư, Tiến sĩ Sử Đình Thành, Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: CBAM là một cơ hội và thách thức đối với Thành phố Hồ Chí Minh.

Việc khai thác các cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết 98 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh hiệu quả sẽ giúp thành phố tận dụng cơ hội, giảm thiểu thách thức, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Đây là lợi thế vượt trội để chính quyền thành phố khẳng định vị thế đi đầu, năng động, sáng tạo, hiệu quả, đồng hành cùng sự phát triển của các doanh nghiệp trên địa bàn trong khi vẫn đặt lợi ích môi trường và phát triển bền vững lên hàng đầu.

Các chuyên gia cho rằng, để thực hiện hiệu quả thị trường các-bon, Thành phố Hồ Chí Minh cần xây dựng lộ trình và các nền tảng nghiên cứu rõ ràng; trong đó, cần nghiên cứu đến gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, từng ngành nghề để có các chính sách hỗ trợ phù hợp cho doanh nghiệp. Thành phố cần trang bị kiến thức và tăng cường nhận thức về thị trường các-bon cho doanh nghiệp và cộng đồng.

Cụ thể là xem xét ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp thiết lập mục tiêu, kế hoạch giảm phát thải một cách tự nguyện và giao dịch tín chỉ các-bon để bù đắp cho lượng phát thải của doanh nghiệp. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung và Thạc sĩ Hoàng Lê Nam Hải (Nhóm nghiên cứu thị trường các-bon, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh), Nghị quyết 98 cho phép thí điểm cơ chế tài chính thực hiện việc giảm phát thải khí nhà kính theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon.

Cụ thể là các cơ chế cho phép thành phố kiểm soát ô nhiễm môi trường; thu hút đầu tư bền vững; tạo nguồn thu và nguồn tài trợ cho các dự án môi trường; thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải của Thành phố Hồ Chí Minh qua đó, thể hiện vai trò đầu tàu trong việc định hình, tạo chuẩn mực và xu hướng cho các địa phương trong việc tham gia và thúc đẩy thị trường các-bon.

Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia thị trường các-bon quốc tế thông qua việc thực hiện các dự án tín chỉ các-bon mà đầu tiên là cơ chế phát triển sạch (CDM) từ năm 2005 với tổng số tín chỉ các-bon ban hành đạt gần 30 triệu. Bên cạnh cơ chế CDM, Việt Nam cũng phát triển các dự án theo các tiêu chuẩn quốc tế độc lập. Theo cơ sở dữ liệu của Dự án Carbon Berkeley, tính đến nay Việt Nam có hơn 70 dự án đăng ký theo Tiêu chuẩn Vàng và 53 dự án đăng ký theo Tiêu chuẩn các-bon được thẩm định...

Các chuyên gia nhận định, thị trường các-bon là một công cụ quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính và chống biến đổi khí hậu. Việc thực hiện thị trường các-bon có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của thành phố trong ngắn hạn, nên cần phải dự báo được những tác động tiêu cực để có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách về phí và lệ phí môi trường nhằm hài hòa mục tiêu môi trường và các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Thành phố cần ban hành một loại phí mới, chẳng hạn như phí các-bon và sử dụng số thu từ nguồn này hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU.

Đồng thời, thành phố cần tích cực hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư vào các công nghệ tiên tiến, giảm phát thải các-bon; chủ động đẩy mạnh đầu tư vào các tài sản công trên địa bàn để có thể giảm thiểu phát thải từ việc sử dụng điện, hướng đến lộ trình trở thành một nhà cung cấp tín chỉ các-bon trên thị trường tự nguyện.