Lịch sử chính trị của xã hội loài người - trên một ý nghĩa rộng lớn - là lịch sử của quá trình nhận thức và thực hiện dân chủ, tức là thừa nhận quyền lực của nhân dân như quyền lực tối thượng. Chế độ xã hội này khác với chế độ xã hội kia ở chỗ dân chủ hay không dân chủ, dân chủ cho ai và thực hiện dân chủ như thế nào? Trong thời đại ngày nay, dân chủ trở thành một trong những giá trị cao cả nhất, đồng thời là một đòi hỏi nội tại của bản thân đời sống kinh tế - xã hội trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ đang xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất và các giá trị tinh thần. Năm 1995, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã cảnh báo thế giới về 5 mô hình kinh tế phản phát triển. Ðó là các mô hình: không bảo đảm công bằng xã hội; không khắc phục khoảng cách giàu nghèo; không tạo thêm việc làm; không gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và không bảo vệ môi trường sinh thái. Tiếp đó, UNDP lại vạch ra những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) trong đó nhấn mạnh sự cần thiết bảo đảm cho đông đảo các tầng lớp xã hội được hưởng công bằng, bình đẳng về kinh tế, xã hội, văn hóa, thông tin, giáo dục, y tế, giới... Rõ ràng là, dân chủ đã được thực tế thừa nhận như điều kiện không thể thiếu cho tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển nói chung.
Hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới được thành lập từ giữa thế kỷ 19 đến nay, nhất là các đảng cộng sản về sau trở thành đảng cầm quyền, đều khẳng định ngay từ đầu tinh thần dân chủ trong đảng và lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của đảng. Trải qua thử thách gần một thế kỷ rưỡi, nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản đã tạo nên sức mạnh to lớn cho mỗi đảng, giúp các đảng vượt qua nhiều thử thách nghiêm trọng trong tổ chức nội bộ và trong lãnh đạo cách mạng, trở thành "hòn đá thử vàng" phân biệt giữa đảng cộng sản chân chính và các đảng giả danh cộng sản, cơ hội, xét lại đủ loại.
Ðược lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thành lập và rèn luyện, ngay từ ngày thành lập cho đến ngày nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Ðảng là tổ chức tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng cộng sản; mọi đảng viên đều có quyền biết, thảo luận và biểu quyết các công việc của Ðảng; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng; phê bình, chất vấn về hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; đề xuất các kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm; v.v... Ðồng thời, Ðảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động; Ðảng gồm nhiều người, nhưng "khi tiến đánh như một người" (Hồ Chí Minh): Ðảng lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Ðảng; trong Ðảng thực hiện kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật của Ðảng là kỷ luật sắt và tự giác; toàn Ðảng chăm lo giữ gìn đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình, đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh chính trị và điều lệ đảng. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Ðảng đề ra các quy định cụ thể bảo đảm thực hiện tốt dân chủ và tập trung dân chủ trong Ðảng. Từ khi trở thành Ðảng cầm quyền, Ðảng Cộng sản Việt Nam kiên định và có bước phát triển mới trong việc phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Thực tế lịch sử của cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn và sức mạnh vô địch của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều vấn đề mới đặt ra khiến cho việc nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ không đơn giản. Bên cạnh các thành công là các biểu hiện: Nhấn mạnh tập trung dẫn đến tập trung quan liêu, cứng nhắc, độc đoán; trái lại, mở rộng dân chủ có thể đi tới phân tán, dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật. Thúc đẩy dân chủ hóa có nơi lại trở thành dân chủ hình thức; đến lượt mình, có trường hợp dân chủ hình thức mà thực chất là đối phó với dân chủ, phản dân chủ. Khắc phục khuynh hướng cực đoan này không khéo lại rơi vào khuynh hướng cực đoan kia. Những biểu hiện nêu trên cho thấy sự cần thiết phải khắc phục những hạn chế, yếu kém trong nhận thức lý luận về bản chất của dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhận thức đúng là tiền đề cho hành động đúng đắn và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong lãnh đạo của Ðảng và quản lý của nhà nước.
Thực chất của vấn đề nằm ở mối liên hệ mật thiết, không tách rời giữa dân chủ và tập trung, sự tác động qua lại giữa dân chủ và tập trung, sự cần thiết tất yếu của dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của Ðảng. Ở đâu có hoạt động của số đông, ở đó cần đến tổ chức, cần đến sự phân công, phối hợp, cần đến vai trò điều khiển, chỉ huy của người nhạc trưởng như Mác nói. Ðảng Cộng sản là một Ðảng cách mạng, Ðảng chiến đấu và Ðảng hành động. Sức mạnh của tổ chức và hiệu quả của hoạt động trong toàn Ðảng dựa trên sức mạnh và hiệu quả của tập trung dân chủ, của việc thực hành dân chủ và tập trung dân chủ một cách tự giác, thống nhất và nhất quán từ các cơ quan lãnh đạo đến mọi cán bộ, đảng viên. Mác đã từng nói, người nghệ sĩ vĩ cầm một mình điều khiển cây đàn thì anh ta tự chỉ huy mình. Ðã là một dàn nhạc giao hưởng thì bắt buộc phải có cây đũa thần trong tay người nhạc trưởng. Có dân chủ mới có sự thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, mới nuôi dưỡng và phát triển được các tài năng. Có tập trung mới tạo ra được sức mạnh chung, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu chung của cách mạng.
Dân chủ cần đến tập trung cũng như tập trung dựa trên cơ sở dân chủ, vì sự thực hiện và phát huy dân chủ. Trong bản chất của nó, dân chủ không đối lập với tập trung. Nó chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài. Tập trung càng không đối lập với dân chủ. Nó chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, bè phái, tự do vô chính phủ mà thôi. Tập trung đúng đắn, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Dân chủ lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập trung, không tách rời tập trung. Tách rời dân chủ với tập trung, tuyệt đối hóa mặt này để xem nhẹ mặt kia, đối lập chúng với nhau một cách siêu hình và giả tạo đều làm suy yếu cả dân chủ lẫn tập trung. Vì thế, Lê-nin nhấn mạnh rằng, nguyên tắc (hay chế độ) tập trung dân chủ phải là một cái gì đó tránh xa tập trung quan liêu và cũng tránh xa được tự do vô chính phủ. Muốn có tập trung dân chủ thì phải bảo đảm dân chủ thực chất đồng thời đề cao kỷ luật, tăng cường chế độ trách nhiệm. Thảo luận thì chung, trách nhiệm thì riêng, riêng đến từng người một là vì vậy.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với các chủ trương khác về đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, Ðảng ta đã nghiêm khắc phê phán những biểu hiện nhận thức giản đơn, lệch lạc, những việc làm trái với nguyên tắc tập trung dân chủ. Ðồng thời, Ðảng khẳng định: Trong điều kiện là Ðảng duy nhất cầm quyền, việc thực hiện nghiêm túc, đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và tạo lập phương thức lãnh đạo đúng đắn của Ðảng.
Với mục tiêu phát huy đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân trong công cuộc xây dựng xã hội XHCN, kiến tạo nền dân chủ XHCN ưu việt hơn các chế độ dân chủ đã có trong lịch sử, đảng cộng sản cầm quyền - trong điều kiện chỉ có duy nhất một đảng cộng sản hay có nhiều đảng, nhưng đảng cộng sản vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo - vừa thông qua bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân; vừa phải phát huy cao độ vai trò của mặt trận với tính cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn, tham gia đắc lực vào việc xây dựng, tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Ðảng, chính sách và pháp luật của nhà nước, tham gia xây dựng Ðảng, thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước. Do đó, dân chủ, tập trung dân chủ trong Ðảng gắn chặt với dân chủ, tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng phải gắn với dân chủ, nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống mặt trận. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện một đảng cộng sản cầm quyền, nếu kết hợp tốt giữa thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng với thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống mặt trận thì sẽ làm phong phú thêm sinh hoạt dân chủ trong xã hội, làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta như Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) đã khẳng định. Nếu tiến hành tốt nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình, mặt trận không chỉ làm tốt vai trò tuyên truyền, vận động sâu rộng các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của đảng, mà còn là lực lượng phản biện xã hội góp phần đắc lực khắc phục nguy cơ quan liêu, chủ quan trong việc hình thành đường lối, chủ trương của các cấp bộ đảng.
Việc hình thành và thông qua các quyết định lãnh đạo của các cấp bộ đảng, về nguyên tắc phải thu hút được sự đóng góp trí tuệ rộng rãi của cán bộ, đảng viên; phải được thảo luận thẳng thắn, triệt để, kỹ lưỡng và quyết định theo đa số; thiểu số phải phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, người có ý kiến thuộc về thiểu số được bảo lưu ý kiến, nhưng phải chấp hành quyết định của tập thể, khi thực tiễn chứng tỏ ý kiến đó là đúng thì tổ chức đảng xem xét lại. Song, trên thực tế có tình hình: không ít cán bộ, đảng viên không thật sự tích cực tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết; không phải mọi ý kiến của đảng viên, nhất là của các đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, đều được phản ánh tới các cấp ủy đảng cấp trên; ý kiến của người lãnh đạo vẫn dường như có "sức nặng" quyết định cuối cùng; ý kiến thuộc thiểu số rất ít khi được đặt lại để xem xét, v.v. Ðặc biệt, có trường hợp - do cố ý hay do thiếu thông tin, nhận thức hạn chế - một số cấp ủy biểu quyết với đa số tán thành thông qua một quyết định cụ thể trái chủ trương, quy định của Ðảng, sai chính sách, pháp luật của Nhà nước; tiếng nói phản đối ở đó là thiểu số, nên không thay đổi được tình hình. Ðể chấn chỉnh những biểu hiện này, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII yêu cầu: "Giữ vững chế độ sinh hoạt định kỳ của các tổ chức đảng, mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận thẳng thắn; tôn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu hết ý kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi quyết định. Khi có ý kiến khác nhau phải thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải biểu quyết; khi cần, phải điều tra, khảo sát, làm thí điểm rồi kết luận. Khi đã có kết luận thì mọi người phải nói và làm theo kết luận; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số có quyền báo cáo lên cấp trên".
Trong quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết của Ðảng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ dễ có sai phạm về phía này hay về phía khác. Lãnh đạo của Ðảng là lãnh đạo tập thể, tập thể giao cho cá nhân phụ trách một số công tác của Ðảng. Nguyên tắc này được mọi người hoàn toàn tán thành, nhưng vận dụng nó trong thực tế thường vấp ngay phải sự thiếu rõ ràng trong ranh giới giữa "lãnh đạo" và "phụ trách". Khi công việc thành công thì thành tích thường được quy về cá nhân một số người lãnh đạo, còn khi thất bại trách nhiệm đổ cho tập thể. Chế độ lãnh đạo tập thể - trên thực tế - chưa thật sự thúc ép người lãnh đạo phải năng động, sáng tạo, thật sự dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng bắt buộc cấp dưới phải phục tùng cấp trên; Ðảng luôn yêu cầu cấp ủy cấp dưới không những phải chấp hành nghiêm chỉnh, mà còn phải thực hiện sáng tạo, có chất lượng và hiệu quả cao các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên. Nhưng, một số cấp ủy cấp dưới chậm thực hiện, thực hiện không đầy đủ; trong thực hiện có một số lệch lạc, thậm chí không thực hiện chỉ thị của cấp ủy cấp trên. Ðại hội lần thứ IX của Ðảng đã nghiêm khắc nhận định: "Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Ðảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Ðảng, pháp luật, chính sách của nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho một số nghị quyết của Ðảng khó vào cuộc sống... Nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn hoặc chỉ nói mà không làm". Mặt khác, khi cấp ủy cấp trên có thiếu sót, sai lầm, cấp dưới thường ngại đấu tranh hoặc có đấu tranh cũng khó được cấp trên tiếp thu sửa chữa.
Một trong những khâu phức tạp và khó khăn nhất trong thực hiện dân chủ và tập trung dân chủ là trong công tác tổ chức - cán bộ. Cấp ủy đảng các cấp do đại hội hoặc đại hội đại biểu cùng cấp bầu ra với chủ ý là chọn cử những người tiêu biểu nhất về phẩm chất và năng lực tham gia cơ quan lãnh đạo của Ðảng. Bên cạnh đó, không thể không xem xét các loại cơ cấu, bảo đảm tính đại diện trong cấp ủy. Nhưng đôi khi cơ cấu được ưu tiên hơn tiêu chuẩn. Trong điều kiện Ðảng cầm quyền, Ðảng phải thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, đồng thời phải đề cao trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu tổ chức. Vận dụng quan điểm chỉ đạo này vào việc bố trí từng loại cán bộ trong cơ quan nhà nước đòi hỏi phải có các quy chế cụ thể, nếu không dễ có sơ hở hoặc phải qua quá nhiều khâu. Yêu cầu đặt ra là chọn được đúng cán bộ để giao việc tương xứng, quyết định về cán bộ là của tập thể lãnh đạo có thẩm quyền, nhưng - dù muốn hay không - công việc chuẩn bị, giới thiệu cán bộ để cấp ủy xem xét vẫn do một số người thực hiện. Những người này thật sự công tâm, khách quan và trung thực thì tập thể lãnh đạo quyết định đúng, nếu không thì có thể nhầm lẫn.
Nguyên tắc dân chủ, tập thể đòi hỏi phải lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ, đảng viên về cán bộ dự kiến bổ nhiệm và chỉ xem xét người được đa số phiếu tín nhiệm. Thường thì việc này diễn ra thuận lợi. Nhưng, ở nơi mất đoàn kết nghiêm trọng kéo dài, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm không phản ánh đúng đánh giá và tín nhiệm đối với cán bộ, người được đa số phiếu chưa hẳn đã xứng đáng. Trong thực tế, đã có trường hợp cấp trên phải can thiệp: giải quyết ổn định về tổ chức rồi mới tiến hành thăm dò tín nhiệm cán bộ.
Từ thực tế công tác cán bộ, Ðảng ta hình thành và khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các bộ phận trong hệ thống chính trị; tập thể quyết định, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Ðảng quyết định chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý đối với toàn bộ đội ngũ cán bộ. Trong lãnh đạo và quản lý cán bộ thực hiện sự phân công, phân cấp hợp lý, nhưng phải luôn bảo đảm các quyết định về cán bộ đều có sự lãnh đạo của tổ chức đảng có thẩm quyền theo quy chế thống nhất. Trong công tác cán bộ, tổ chức đảng thực hiện nguyên tắc tập thể quyết định theo đa số, nhưng tôn trọng và đề cao vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, cơ quan. Ðối với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, trù dập cán bộ..., cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức và cán bộ; nơi không thể khắc phục được khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới, thay ngay cán bộ chủ chốt và chỉ định cán bộ lãnh đạo chủ chốt mới theo quy định của Ðiều lệ Ðảng.
Qua một số tình huống vừa nêu đủ thấy, nguyên tắc tập trung dân chủ là cần thiết và hoàn toàn đúng đắn, nhưng việc nhận thức và vận dụng đúng nó đòi hỏi phải xử lý thận trọng, tinh tường từng vấn đề, từng trường hợp cụ thể. Nhìn rộng ra, một số đảng cộng sản đã từng phạm sai lầm về chính ngay nguyên tắc cốt tử này. Sai lầm khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã xảy ra trong các đảng cầm quyền và trong các đảng không cầm quyền. Như đã biết, Ðảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử lâu dài thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng đã từng có một thời kỳ dài xảy ra tình trạng độc đoán, chuyên quyền và cuối cùng, chính người đứng đầu đảng công nhiên tuyên bố giải tán đảng! Ở một số đảng có thời kỳ cũng mắc căn bệnh sùng bái cá nhân lãnh tụ, trong điều kiện hòa bình mà mấy chục năm không tiến hành đại hội toàn quốc. Những năm gần đây, một số đảng cộng sản ở châu Âu chủ trương "vượt qua" nguyên tắc tập trung dân chủ.
Sự vận động không ngừng của bản thân đảng và của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện chế độ dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng.
Trước hết, cần kiên trì khẳng định: chế độ dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng là đúng đắn và còn giữ nguyên giá trị. Dân chủ là phương thức tối cần thiết để phát huy rộng rãi trí tuệ, tinh thần xây dựng và tính chiến đấu của toàn thể đội ngũ đảng viên. Dân chủ trong Ðảng phải là kiểu mẫu, là lực đẩy dân chủ trong xã hội. Những gì cản trở, hạn chế dân chủ đều là đi ngược lại bản chất của Ðảng, làm suy giảm sức sống và năng lực lãnh đạo của bản thân Ðảng. Tập trung dân chủ bảo đảm cho Ðảng luôn thống nhất ý chí và hành động, đoàn kết nhất trí, chống mọi sự chia rẽ. Càng đi sâu vào kinh tế thị trường, dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Ðảng càng cần giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Các biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và trong thực hiện nguyên tắc này cần được khắc phục, nhưng tuyệt nhiên không vì thế mà hoài nghi, đặt vấn đề xem xét lại nguyên tắc cơ bản này trong tổ chức và hoạt động của Ðảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ - trong mục đích sâu xa của nó - là nguyên tắc hướng tới sự thống nhất trong Ðảng và nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Ðảng, chỉ có điều đó là sự thống nhất trên cơ sở dân chủ, sau khi đã thảo luận hết sức dân chủ, rộng rãi, tức là không phải tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất nội tại. Vì thế, không nên hiểu tập trung dân chủ là sự kết hợp, sự cân bằng, điều hòa giữa tập trung và dân chủ. Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ là đồng thuận. Tập trung càng hiệu quả, thì dân chủ càng cao. Dân chủ càng rộng rãi thì tập trung càng đúng đắn, lành mạnh. Về mặt nguyên tắc, dân chủ và tập trung không loại trừ nhau, mà là tiền đề bảo đảm cho nhau. Tập trung dân chủ được thực hiện đúng thì sẽ không xảy ra cả tình trạng phân tán, vô chính phủ và tình trạng chuyên quyền, áp đặt. Trong thực tế, các quyết định tập trung sai là do nó không phải là kết quả của quá trình chuẩn bị thật sự dân chủ, công khai; ngược lại, thảo luận dân chủ không đi tới được sự nhất trí chung cũng không đúng tinh thần dân chủ của nguyên tắc tập trung dân chủ. Thu hẹp dân chủ không những trái với tinh thần dân chủ của Ðảng, mà còn khiến cho sự lãnh đạo tập trung phạm phải sai lầm. Buông lỏng sự lãnh đạo tập trung vừa mở đường cho sự tự do vô kỷ luật, vừa đẩy dân chủ đến chỗ mất phương hướng và vô giá trị.
Thực tế cho thấy, mọi nguyên tắc chỉ phát huy sức mạnh trong cuộc sống khi nó được nhận thức và vận dụng đúng đắn. Ở đây đòi hỏi các cán bộ, đảng viên phải có tính đảng, tinh thần tự giác, trình độ trí tuệ và bản lĩnh rất cao. Các phẩm chất này bảo đảm cho các tổ chức đảng và đảng viên chủ động, nghiêm túc trong thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, không lợi dụng nguyên tắc vì động cơ cá nhân, cục bộ. Nếu lòng dạ không trong sáng, người ta có thể tìm ra muôn vàn phương cách để hạn chế dân chủ hoặc chỉ thực hiện dân chủ một cách hình thức, đối phó với sức ép của dư luận; để biến tập trung thành ý chí cá nhân. Mọi cán bộ, đảng viên có nhận thức tốt, nắm vững nguyên tắc mới có điều kiện bảo vệ và thực hành đúng dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức, trong sinh hoạt và các mặt hoạt động của Ðảng.
Không thể không suy ngẫm nghiêm túc và sâu sắc các câu hỏi: Vì sao một số đảng cộng sản trên thế giới tuyên bố từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ sau nhiều thập niên duy trì, bảo vệ và thực hiện? Vì sao không ít quần chúng cách mạng có định kiến và phản cảm với nguyên tắc cốt tử này của đội tiền phong vô sản? Do các thế lực phản động tuyên truyền, bôi nhọ; hoặc do nhận thức chủ quan của các đảng có ấu trĩ, sai lầm? Ðúng là có các nguyên nhân như vậy ở mức độ này hay mức độ khác. Nhưng, nguyên nhân hàng đầu là do chính việc thực hiện nguyên tắc đó trong nhiều thập kỷ trước kia của các đảng cộng sản có nhiều lệch lạc, biến dạng. Dân chủ nhiều khi được triển khai một cách hình thức, theo ý đồ của cá nhân người lãnh đạo. Tập trung bị lợi dụng để khẳng định quyền uy cá nhân, bè nhóm, phe phái. Nguyên tắc tập trung dân chủ - trong không ít trường hợp - trở thành công cụ của chủ nghĩa cục bộ, chuyên quyền, độc đoán.
Người đứng đầu tổ chức đảng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề này. Người lãnh đạo hiểu rõ ý nghĩa của dân chủ, tầm quan trọng của việc thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ chủ động, tích cực tìm ra và tổ chức thực hiện tốt nguyên tắc này, tạo lập trong cấp ủy và tổ chức đảng bầu không khí dân chủ, lành mạnh, mọi người mạnh dạn nói thẳng, nói đúng, nói hết suy nghĩ của mình, chăm lo giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí cả khi thuận lợi, thành công lẫn lúc gặp khó khăn, thất bại. Ngược lại, nếu người lãnh đạo có dụng ý hạn chế dân chủ thì dù số đông cán bộ, đảng viên mong muốn cũng khó được thực hiện, đến khi cấp trên chấn chỉnh thì nhiều việc đã trở nên quá muộn. Vì thế, thái độ dân chủ và năng lực thực hành tập trung dân chủ trở thành một trong những tiêu chuẩn thiết yếu của người bí thư và cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp ủy. Năng lực, phẩm chất - nói rộng ra là nhân cách, văn hóa của cán bộ, đảng viên, nhất là của cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cấp ủy được xác định trên nhiều mặt, trong đó không thể không nói đến ý thức dân chủ, năng lực thực hành dân chủ và tập trung dân chủ trong sinh hoạt Ðảng, trong công tác lãnh đạo và vận động quần chúng. Ðảng Cộng sản cầm quyền phải đặc biệt chú trọng, giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên về văn hóa dân chủ. Ðây là vấn đề cốt lõi của văn hóa chính trị của Ðảng. Trình độ văn hóa dân chủ và văn hóa chính trị là một trong những thước đo về trình độ trưởng thành và bản lĩnh văn hóa của Ðảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Người về dân chủ là tài sản vô giá mà Ðảng ta cần đặc biệt chú trọng phát huy, vận dụng vào công tác xây dựng Ðảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng.
Theo Hồ Chí Minh, có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Muốn vậy, trong Ðảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn (Hồ Chí Minh toàn tập, T9, tr.592; T12, tr.249).
Ðảng kiểu mới của giai cấp vô sản có một hệ thống các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, trong đó tập trung dân chủ là nguyên tắc hàng đầu, nhưng không phải là duy nhất. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải kiên quyết tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và phải thực hiện nó đồng bộ với các nguyên tắc khác: tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Ðảng; Ðảng gắn bó máu thịt với nhân dân...
Với tính cách là một nguyên tắc, tập trung dân chủ cần được cụ thể hóa thành các quy chế, quy định, kèm theo các chế tài cần thiết, càng cụ thể càng tốt để dễ thực hiện và kiểm tra. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng xây dựng và hoàn thiện các quy chế: tạo điều kiện để đảng viên tìm hiểu sâu và tham gia nhiều hơn vào các công việc của Ðảng; quy chế về đại hội đại biểu (dân chủ đại diện) của Ðảng; quy trình, quy chế xây dựng và thông qua các quyết định; quan hệ công tác giữa bí thư, ban thường vụ và ban chấp hành đảng bộ ở từng cấp; quy chế về chế độ bầu cử trong Ðảng; chế độ thông báo tình hình, cung cấp thông tin nội bộ đảng; chế độ báo cáo; quy chế về bảo lưu ý kiến và xem xét ý kiến bảo lưu; v.v. Bản thân mỗi quy chế ấy cần quán triệt đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và Ðiều lệ Ðảng, bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ, được thảo luận rộng rãi trước khi ban hành; giữa các quy chế không được mâu thuẫn nhau. Trong điều kiện Ðảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, các quy chế hoạt động của Ðảng cũng phải tuân thủ nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Ðảng có quyền và cần phải đòi hỏi cao đối với đảng viên, trong đó yêu cầu mỗi đảng viên phải là một công dân gương mẫu. Vấn đề đặt ra ở đây là phải bảo đảm sự thống nhất hài hòa giữa trách nhiệm đảng viên và quyền công dân của đảng viên. Trên cơ sở nguyên tắc chung, Ðiều lệ Ðảng, quy định của cấp trên, từng cấp ủy cấp dưới - căn cứ đặc điểm và nhiệm vụ của mình - xây dựng các quy chế thích hợp. Mọi tổ chức và cá nhân phải thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định đã ban hành. Sau một thời gian thực hiện, một số quy chế có thể và cần phải được bổ sung, hoàn thiện thêm.
Kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với việc thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ của cấp ủy cấp dưới là một biện pháp hữu ích về nhiều mặt. Kiểm tra vừa nhằm phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm, vừa giúp cấp ủy cấp trên tổng kết thực tiễn, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc của cấp dưới, bổ sung các quy chế để áp dụng chung. Vì thế, kiểm tra việc thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ xứng đáng là một nội dung trọng yếu trong công tác kiểm tra kỷ luật đảng. V.I.Lê-nin từng nói một cách hình ảnh: rất khó để tóm được, vạch mặt được một anh chàng quan liêu. Cho nên, để kiểm tra có kết quả phải có phương pháp khoa học, trong đó phải đặc biệt chú trọng dựa vào đảng viên và quần chúng tiên tiến, phát động được đảng viên dũng cảm đấu tranh với những biểu hiện thiếu dân chủ, dân chủ hình thức, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ngày nay, dân chủ không chỉ là nguồn sức mạnh mà là phương thức lãnh đạo của Ðảng Cộng sản cầm quyền, là một tiêu chí đánh giá trình độ văn minh chính trị của đảng. Nói về Ðảng Cộng sản, Lê-nin đòi hỏi Ðảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Ðảng ta là một Ðảng chân chính cách mạng, Ðảng là đạo đức, là văn minh. Với một Ðảng như vậy, thực hiện dân chủ và tập trung dân chủ trong Ðảng chẳng những nâng cao sức chiến đấu của Ðảng mà còn nâng cao uy tín và ảnh hưởng của Ðảng trong xã hội.
Giác ngộ và thực hiện tập trung dân chủ, xét trong chiều sâu văn hóa của nó lại là vấn đề tự do trong nhận thức quy luật và hành động đúng quy luật, thuận theo chân lý và đạo lý. Chỉ dẫn sâu sắc của Hồ Chí Minh về điều này đáng để cho mỗi chúng ta suy ngẫm và vận dụng. Người giải thích rằng, "chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Ðối với mọi vấn đề, mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Ðó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý..." (Sđd, T8, tr.216). Trong nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, sự lãnh đạo của Ðảng bằng phương thức dân chủ là nội dung cốt lõi. Trong bản chất của mình, dân chủ xã hội chủ nghĩa cao hơn nhiều lần so với dân chủ tư sản. Tương tự như vậy, một trong những sự khác biệt căn bản trong phương thức cầm quyền giữa đảng cộng sản với các đảng khác là ở điểm này. Dân chủ trong Ðảng không những là vấn đề cốt tử, sống còn của Ðảng, mà còn là nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội được vững bền và có hiệu quả. Ý thức đầy đủ, sâu sắc điều này là điều kiện đầu tiên để toàn Ðảng tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm tòi những hình thức, biện pháp thích hợp hơn để mở rộng dân chủ và thực hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng. Vẫn biết, vấn đề không hề đơn giản, thậm chí trong một việc cụ thể nào đó ranh giới giữa đúng và sai không thật rõ ràng, không dễ phân định ngay, nhưng càng khó khăn càng đòi hỏi Ðảng phải nỗ lực tìm tòi, thử nghiệm. Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, với trí tuệ và bản lĩnh chung của toàn Ðảng, với sự ủng hộ của nhân dân, các đảng cộng sản cầm quyền sẽ luôn là chính đảng kiểu mẫu về dân chủ, về đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động.