Cần các cơ chế chính sách đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam

Sáng 5/10, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với các bộ, ngành, cơ quan liên quan để thảo luận, cho ý kiến về chủ trương đầu tư Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam và tình hình triển khai các dự án đường sắt kết nối với Trung Quốc.
0:00 / 0:00
0:00
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu ý kiến tại cuộc họp (Ảnh: TRẦN HẢI)
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu ý kiến tại cuộc họp (Ảnh: TRẦN HẢI)

Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Hòa Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng; Lương Tam Quang, Bộ trưởng Công an; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ: Trần Hồng Hà, Lê Thành Long và Hồ Đức Phớc.

Phát biểu ý kiến mở đầu cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam và các dự án đường sắt kết nối với Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển đất nước ta. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải chuẩn bị báo cáo Bộ Chính trị và Trung ương Đảng. Tại Hội nghị Trung ương 10 vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất chủ trương về xây dựng dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam. Đây là việc lớn, Trung ương đã cho chủ trương, chúng ta tiếp tục chuẩn bị báo cáo Quốc hội. Do đó, Thường trực Chính phủ họp với các bộ, ngành liên quan thảo luận về vấn đề này, tiếp tục chuẩn bị dự án thật tốt để báo cáo Quốc hội; tiếp tục triển khai công việc nghiên cứu các dự án đường sắt kết nối Trung Quốc để báo cáo các cấp có thẩm quyền. Đây là những việc lớn và quan trọng.

Cần các cơ chế chính sách đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam ảnh 1

Quang cảnh cuộc họp. (Ảnh: TRẦN HẢI)

Chúng ta còn phải chuẩn bị nguồn lực, điều kiện cần thiết khác. Thường trực Chính phủ cần có sự thống nhất, đồng thuận, nhất là cách huy động nguồn lực và triển khai. Vấn đề là cần quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, phân công “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm”. Đặc biệt cần làm rõ về huy động nguồn lực, và tiến độ. Chúng ta "chỉ bàn làm, không bàn lùi"; quá trình làm phải trình các thủ tục đúng trình tự theo quy định của pháp luật.

Cần các cơ chế chính sách đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam ảnh 2

Các Thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành tham dự cuộc họp. (Ảnh: TRẦN HẢI)

* Theo Bộ Giao thông vận tải, Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam được Bộ Giao thông vận tải và cùng các bộ, ban, ngành tích cực nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo mô hình từ 22 quốc gia và vùng lãnh thổ, tổ chức học tập kinh nghiệm tại 6 nước sở hữu và làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao.

Trên cơ sở đó, đề xuất Tuyến đường sắt tốc độ cao bắc-nam với chiều dài 1.541km, quy mô đường đôi, khổ 1.435mm, điện khí hóa, hạ tầng thiết kế với tốc độ 350km/giờ, bố trí 23 ga hành khách với cự ly trung bình khoảng 67km, 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa. Tuyến sẽ bắt đầu từ ga Ngọc Hồi, Hà Nội, đi qua 20 tỉnh, thành phố và kết thúc tại ga Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cần các cơ chế chính sách đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam ảnh 3

Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu ý kiến tại cuộc họp. (Ảnh: TRẦN HẢI)

Qua rà soát phương án đầu tư, sơ bộ về công nghệ, kỹ thuật, quy mô đầu tư, tham khảo suất đầu tư các dự án đường sắt tốc độ cao đã và đang triển khai trên thế giới, Tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi tính toán sơ bộ xác định tổng mức đầu tư dự án khoảng 67,34 tỷ USD.

Cần các cơ chế chính sách đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam ảnh 4

Lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải báo cáo tại cuộc họp. (Ảnh: TRẦN HẢI)

Bộ Giao thông vận tải đặt mục tiêu trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại kỳ họp tháng 10/2024; đấu thầu lựa chọn tư vấn quốc tế, triển khai khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trong năm 2025-2026; triển khai giải phóng mặt bằng, đấu thầu lựa chọn nhà thầu và khởi công các dự án thành phần đoạn Hà Nội-Vinh và Nha Trang-Thành phố Hồ Chí Minh cuối năm 2027; khởi công các dự án thành phần đoạn Vinh-Nha Trang năm 2028-2029 và phấn đấu hoàn thành đầu tư toàn tuyến năm 2035.

Cũng theo Bộ Giao thông vận tải, các bộ, cơ quan liên quan đang tích cực xây dựng các dự án tập trung thúc đẩy hợp tác triển khai ba tuyến đường sắt kết nối Việt Nam-Trung Quốc gồm tuyến: Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng; Lạng Sơn-Hà Nội; Móng Cái-Hạ Long-Hải Phòng.

Tuyến đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng: có chiều dài khoảng 380km, điểm đầu tại Lào Cai (điểm nổi ray giữa Việt Nam và Trung Quốc), điểm cuối tại cảng Lạch Huyện; kết nối Vùng Thủ đô Hà Nội với cảng biển quốc tế Hải Phòng, kết nối liên vận quốc tế với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Dự kiến, quy mô: khổ đường 1435mm, điện khí hóa, vận tải hành khách và hàng hóa, tốc độ tàu khách 160km/giờ, tàu hàng khoảng 120km/giờ; tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 11,6 tỷ USD.

Tuyến đường sắt Hà Nội-Đồng Đăng: chiều dài khoảng 156km; điểm đầu tại cửa khẩu Đồng Đăng, điểm cuối tại ga Yên Viên; kết nối Thủ đô Hà Nội với một số tỉnh phía Đông Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang và Lạng Sơn) và kết nối liên vận quốc tế với Trung Quốc qua cửa khẩu liên vận quốc tế đường sắt - Đồng Đăng. Dự kiến quy mô đầu tư: khổ đường 1435mm, điện khí hóa, vận tải hành khách và hàng hóa, tốc độ tàu khách 160km/h, tàu hàng khoảng 120km/giờ; tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 6 tỷ USD.

Tuyến đường sắt Hải Phòng-Hạ Long-Móng Cái: chiều dài khoảng 187km, thuộc tuyến đường sắt Quảng Ninh-Hải Phòng-Thái Bình-Nam Định; điểm đầu tại ga Nam Đình Vũ (phường Hải An, thành phố Hải Phòng), điểm cuối tại điểm nối ray gần khu vực cầu Bắc Luân (vị trí cụ thể điểm nối ray trong thời gian tới Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp với phía Trung Quốc xác định trong quá trình lập quy hoạch chi tiết). Tuyến kết nối các tỉnh ven biển phía bắc và kết nối liên vận quốc quốc tế với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái. Dự kiến quy mô đầu tư: khổ đường 1435mm, điện khí hóa, vận tải hành khách và hàng hóa, tốc độ tàu khách 160km/giờ, tàu hàng khoảng 120km/giờ; tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 7 tỷ USD.

Tại cuộc họp, Thường trực Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành thảo luận về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đầu tư xây dựng các dự án đường sắt đối với phát triển đất nước; phân tích bối cảnh tình hình đất nước và kinh nghiệm quốc tế trong đầu tư, vận hành, hiệu quả kinh tế-xã hội…; các cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý thực hiện chủ trương của Trung ương, đặc biệt đề xuất cần cơ chế đặc thù về huy động nguồn lực và thủ tục đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam.

Kết luận cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh cuộc họp nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương và Kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam. Đánh giá cao các ý kiến đóng góp “đúng, trúng” tại cuộc họp, Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải, các bộ, cơ quan liên quan bám sát chủ trương của Trung ương, Bộ Chính trị, đồng thời tiếp thu tối đa các ý kiến của Thường trực Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành để trình Hội đồng thẩm định, khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội theo quy định với tinh thần khẩn trương, nghiên cứu kỹ lưỡng, triển khai nhanh chóng.

Thủ tướng nêu rõ, Trung ương, Bộ Chính trị đã thống nhất chủ trương đầu tư xây dựng toàn tuyến đường sắt tốc độ cao trục bắc-nam, với vận tốc thiết kế 350km/giờ; là đường sắt lưỡng dụng, vừa phát triển kinh tế-xã hội, vừa phục vụ quốc phòng, an ninh; lưu ý cần đánh giá tác động tới nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách và phân tích rõ hiệu quả của dự án, không chỉ về mặt kinh tế, mà phải đánh giá hiệu quả tổng hợp, góp phần nâng cao tiềm lực, vị thế của đất nước, giảm chi phí logistics, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và nền kinh tế…

Thủ tướng yêu cầu quá trình xây dựng Đề án cần bám sát chủ trương của Bộ Chính trị để tính toán các phương án kỹ thuật, hướng tuyến với tinh thần hướng tuyến thẳng nhất có thể, tránh giao cắt, “qua núi làm hầm, qua sông bắc cầu, qua ruộng đổ đất đổ cát” để giảm chi phí, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, tốc độ, tránh các khu dân cư, đô thị lớn, giảm chi phí giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi trong thi công, tạo không gian phát triển mới.

Việc tính toán quy hoạch xây dựng phải bảo đảm hiện đại, có tầm nhìn xa; phát huy công năng, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng các địa phương và cả khu vực.

Tuyến đường sắt này phải được xây dựng phù hợp quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, đảm bảo tính kết nối với các hạ tầng, phương thức giao thông khác, như sân bay, cảng biển lớn; có khả năng kết nối các hành lang kinh tế trong nước và kết nối với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Lào, Campuchia…; rà soát lại suất đầu tư, sơ bộ tổng mức đầu tư đảm bảo chính xác nhất có thể; rà soát và đề xuất các cơ chế đặc thù, đặc biệt cho triển khai dự án, nhất là về huy động nguồn lực và quy trình thủ tục, các chính sách đặc thù, linh hoạt về đất đai, giải phóng mặt bằng, vật liệu xây dựng… với phương châm cơ chế thông thoáng, thủ tục rút gọn, thi công rút ngắn.

Về nguồn lực, Thủ tướng yêu cầu phải đề xuất cơ chế huy động, đa dạng hoá các nguồn lực, gồm nguồn lực đầu tư công của Trung ương, địa phương, nguồn lực từ vốn vay, phát hành trái phiếu và các nguồn lực hợp pháp khác - nhất là trong xây dựng, vận hành nhà ga…

Cùng với nguồn lực tài chính, cần huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, huy động sức mạnh của nhân dân và doanh nghiệp, huy động tổng lực nguồn nhân lực, phương tiện của đất nước phục vụ dự án; phân cấp cho địa phương chịu trách nhiệm về công tác giải phóng mặt bằng. Ngoài những hạng mục phải huy động máy móc thiết bị, những gì có thể làm thủ công thì cần tranh thủ huy động lực lượng địa phương như thanh niên, phụ nữ… vào cuộc hỗ trợ.

Về nguồn vật liệu xây dựng, Thủ tướng yêu cầu cần có chính sách đặc thù khai thác vật liệu xây dựng cho thi công dự án này. Bộ Tài nguyên và Môi trường chú ý các chính sách liên quan về khai thác mỏ, tận dụng nguồn nguyên vật liệu, nhất là tận dụng nguồn đất đá khi đào hồ, khai thác mỏ để dùng để san lấp. Liên quan vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, Thủ tướng yêu cầu cần rà soát lại số lượng người cần đào tạo; phải có cách làm mới, quyết tâm chính trị cao với tinh thần phải chuẩn bị nguồn lực con người cho vận hành từ sớm.

Về tổ chức, Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ đã thành lập Tổ công tác, Bộ Giao thông vận tải cần lập tổ giúp việc chuyên trách xây dựng, triển khai dự án với các nhân sự có chất lượng tốt nhất. Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà trực tiếp chỉ đạo triển khai chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị, quản lý, vận hành đường sắt…

Thủ tướng nhấn mạnh, để triển khai chủ trương đầu tư án, phải có cách làm mới với quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, làm việc nào dứt việc đó, "chỉ bàn làm, không bàn lùi", phân công "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm", khơi dậy và phát huy tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần dám nghĩ dám làm, vận dụng sáng tạo truyền thống nghệ thuật chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trong lịch sử dân tộc để làm công trình này.

Cũng tại cuộc họp, các đại biểu đã thảo luận về việc triển khai các dự án đường sắt kết nối với Trung Quốc gồm các tuyến: Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng, Lạng Sơn-Hà Nội, Móng Cái-Hạ Long-Hải Phòng.