Tôi cùng nghệ sĩ nhiếp ảnh Minh Cường tổ chức chuyến đi thực tế từ đầu đến cuối dòng sông. Rồi một đêm, trong căn nhà bên cạnh đường tàu, những dòng ký ức, như tiếng sóng dội, như nhịp đập con tim, hiện dần lên trang giấy...
Sông Châu, dòng xanh lượn ôm bãi mía, bờ dâu, vườn cây trù phú, khơi nguồn sức xuân sáng tạo. Như truyền thống đã có, tích tụ vào nét hoa văn trống đồng, vào văn bia chùa Ðọi, hồn thơ Nguyễn Khuyến, trang văn Nam Cao... Từ cửa ngõ thủ đô, vươn mình theo kịp bước đi của đời sống văn hóa cả nước...
Dòng sông huyền thoại bắt nguồn từ mạn Cổ Châu - Cầu Giẽ hay sông xưa có nhiều trai ngọc quý mà nên tên sông. "Sông Châu thắt dải lụa mềm đón ngõ" (Trường ca đồng chiêm), dòng xanh lượn qua sườn núi Rồng đội (Long Ðọi), Trâu nằm (Kim Ngưu - Ðiệp Sơn)... Mở khẩu với sông Hồng, nơi cửa Tuần Vường "Nhất cao là núi Tản Viên, nhất sâu là vũng Thủy Tiên, Tuần Vường" rồi "Núi Ðọi ai đắp mà cao, ngã ba sông Móng ai đào mà sâu"...
Ngược thời gian 1020 xuân trước. "Ðinh Hợi, năm thứ tám (987), mùa xuân vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Ðọi, được một chĩnh nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim ngân". (Ðại Việt sử ký toàn thư). Nay trên nóc nhà Tổ di tích lịch sử Quốc gia chùa Long Ðọi còn bức phù điêu khắc họa cảnh vua đi cày ngày ấy.
Từ năm Ðinh Hợi thế kỷ X (987) đến năm Ðinh Hợi thế kỷ XXI (2007) này là vừa tròn 17 vòng (Hội) sáu mươi năm. Không phải ngẫu nhiên mà Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, võ công phá Tống, bình Chiêm, trị nước trọng nông chọn danh sơn này tiến hành nghi lễ cày ruộng tịch điền, mở đầu một năm làm ăn cho muôn dân nước Việt.
Vùng đất linh sơn, linh địa (Trần Quốc Vượng), nhà Lý xây hành cung và đặt kho tài vật lớn (chưa kể còn một hành cung nữa ở mạn Phú Phúc, nơi Chiêm phi Mị Ê trẫm mình). Ông Nghè Trình Thuấn Du nhà ở dưới chân núi Ðọi, bậc đại khoa trong khoa cử phong kiến trấn Sơn Nam, theo giai thoại có lần cụ Nghè Trình đã đưa Thừa chỉ Nguyễn Trãi (sau này là danh nhân văn hóa thế giới), cùng Lý Tử Tấn bạn quan đồng triều về thăm quê nhà. Sau này Lý tiên sinh viết: "Vùng đất Sơn Nam, bằng phẳng cao ráo, cấy lúa thích hợp, nông gia làm lụng hơn các nơi khác. Các triều phí dụng nuôi quân đều nhờ vào vùng này".
Văn bia chùa Ðọi: "Lúc rảnh mới xây, được mùa mới lập... Trải qua ba vụ cấy cày, bốn mùa lúa chín mới hoàn thành. Vua (Lý Nhân Tông) thân đến chia vui trẻ già muôn nước, đọc kinh kệ, cúng lễ, ca múa... Thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quý ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn". Nay đọc lại thấy gần gũi biết chừng nào. Bây giờ, khắp chốn cùng quê, được mùa, được lòng người, nơi nơi tu sửa các di tích lịch sử, chỉnh trang nơi an giấc các anh hùng liệt sĩ, trang hoàng công sở, nhà cửa có phải bắt nguồn từ nét đẹp truyền thống ngàn xưa.
Nhà bác học Lê Quý Ðôn (1726-1784), cháu ngoại Tiến sĩ Trương Minh Lượng, quê làng Ngô Xá xã Tiên Nội, cách chùa Long Ðọi một hồi chuông ngân, cuối đời an giấc ngàn thu nơi đất này. Tác giả của hơn bốn chục pho kinh điển mà "Vân Ðài loại ngữ" (VÐLN), được coi là Bách khoa thư. Lê Quý Ðôn là người đầu tiên khảo sát vùng đất đồng chiêm: "Người Nam giao tiếp với người Chiêm Thành nên trồng được thứ lúa chín về mùa hè gọi là chiêm" (VÐLN).
Lại có thuyết nói chiêm bắt nguồn từ chằm có nghĩa là đồng lầy mà ra. Trong bài thơ: "Buổi sáng xuất phát ao Kính Lãnh, xuống sông Thiên Mạc, vào sông con, ngủ lại xã Ô Mễ", cho ta biết ngày Thượng tỵ (mồng 3 tháng 3) năm ấy, trong tiết cuối xuân, nhà bác học đi thuyền từ Thăng Long về quê ngoại. Thuyền qua sông Thiên Mạc, nơi diễn ra các trận đánh của quân đội nhà Trần, quãng gần thị trấn Hòa Mạc, vào sông Châu, rồi ngủ lại một đêm ở xã Ô Mễ, nay thuộc đất Tràng An, Bình Lục.
Sáng ra chèo đẩy phóng thuyền nhanh
Trời đất miền sông cảnh cũng thanh
Lúa lũng nước no xanh trải lá
Trúc đồi khoe đượm biếc phô cành
Cũng từ những chuyến đi thị sát, với chức Tham tụng phủ chúa, Lê Quý Ðôn hiểu rõ cuộc sống dân tình. Ông đã bỏ tiền giúp dân làm cống Bược, dấu tích để lại ở thôn Thọ Cầu, xã Châu Sơn, quê hương tiến sĩ Lý Trần Thản và nhà thơ Kép Trà. Cống để tiêu nước từ cánh đồng xưa vua cày ruộng tịch điền ra sông Châu Giang.
Thuở ấy, đồng bằng Bắc Bộ đã trồng được 28 giống lúa nếp, 32 giống lúa tẻ (VÐLN), mà lúa lũng là loại tẻ ngon xứ đồng chiêm nay không còn. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Bộ Canh nông khảo sát vùng Nam Ðịnh, Hà Nam, ghi được 49 giống lúa chiêm, 80 giống lúa mùa, trong 129 giống lúa cả vùng. Nếu mất trắng vụ mùa coi như mất đi 2/3 sản lượng lương thực một năm. Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, hậu phương cũng là mặt trận đồng bằng. Trong tác phẩm "Người sông Châu" của Hoài Giao nguyên là bộ đội địa phương Hà Nam, ca ngợi anh hùng Trần Văn Chuông (vua mìn). Khung cảnh làng quê ngày ấy sao diễn ra đầm ấm trữ tình đến thế.
Em về chắp lại guồng sa
Vải thưa em nhuộm nâu già cũng tươi
Anh về Ðinh Xá chọn nồi
Thổi cơm tám ỏn anh mời bạn duyên
Bao giờ nước cả đồng chiêm
Có đi hội gặt thì lên một đò
Ðêm trăng mật mía ra lò
Sông quê sẽ thả câu hò chở xuôi...
Ðời sống con sông cũng như đời người có thăng, có giáng. Sau trận lũ lụt vỡ cống Phủ Lý, trôi đập Cánh Diễm, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hầu như chịu bó tay trước nạn lụt ở Bắc Hà.
Ðặc biệt trận lụt ngày 25-7 năm Canh Tuất (1910), vỡ đê Mạc Thượng, giáp ranh hai xã Chính Lý (Lý Nhân) Chuyên Ngoại (Duy Tiên). Tỉnh Hà Nam ngập trắng, nước lũ theo chỗ vỡ trào lên ngập cả bốn huyện tỉnh Hà Ðông cũ. Ðê được chính phủ Nam triều cho hoành triệt, dòng sông Châu Giang được gọi là Tắc Giang. Thế là dòng lưu thủy từ cửa Gọng Vó gần cầu Yên Lệnh đã được hàn khẩu. Ðến năm 1942, toàn quyền Ðông Dương đã cho đắp tiếp đập Phúc nay thuộc xã Yên Nam (Duy Tiên).
Ðoạn sông nơi ngã ba Móng, nguồn phát tích các làn điệu dân ca xứ Nam, nơi một tiếng gà ba huyện cùng nghe lại một con đập, mang tên đập Trung. Rồi đập Vĩnh Trụ ngăn dòng chảy về cửa Tuần Vường (Hữu Bị). Một đường nước ngược hướng thị xã ngã ba sông, tiếp với hệ thống sông Ðáy, sông Nhuệ, qua cống Phủ Lý, từng hứng chịu nhiều trận bom Mỹ.
Dòng sông xanh xưa đã bị ô nhiễm, mùa khô thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Những gì chế độ phong kiến bó tay thì nay ta làm được. Chuẩn bị dự án thủy lợi Tắc Giang - Phủ Lý, mười năm qua, tỉnh Hà Nam đã đầu tư 2.000 tỷ đồng vào công tác thủy lợi. Trên 300 cây số kênh mương các loại trong tổng số 3.540 cây số mương tưới đã được bê-tông hóa.
Tổng dự án Tắc Giang - Phủ Lý lên tới 240 tỷ đồng. Khi công trình hoàn thành sẽ chủ động tưới tiêu cho 18 nghìn ha lúa, cây hoa màu, cây công nghiệp các huyện Lý Nhân, Bình Lục, Thanh Liêm, Duy Tiên. Dòng nước phù sa sông Hồng lại qua sông Châu tiếp sức cho hệ thống sông Ðáy, mở luồng giao thông thủy để thuyền 200 tấn thảnh thơi đi lại trên sông.
Dòng nước ngọt cho sản xuất, cải thiện nguồn nước sinh hoạt cho đời sống và các khu công nghiệp, thêm nguồn nước cho vùng hạ lưu hai tỉnh Nam Ðịnh, Ninh Bình, mở mang du lịch nơi cửa ngõ đi vào thắng cảnh Hương Tích, cố đô Hoa Lư... để Phủ Lý trở thành thành phố trong tương lai gần.
Một thập kỷ 10 năm từ khi tỉnh Hà Nam tái lập, theo lời ông Ðinh Văn Cương - Ủy viên Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa X, Bí thư Tỉnh ủy, là 10 năm được mùa liên tiếp cả ba vụ. Sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước tới nay trên 432 nghìn tấn, giá trị sản xuất xấp xỉ đạt 42 triệu đồng/ha.
Với ba khu công nghiệp, hai cụm công nghiệp, 7 cụm tiểu thủ công nghiệp gồm 28 ngành nghề tiếp tục phát triển là niềm tin để chúng ta tiếp chặng đường mới, phấn đấu xây dựng tỉnh Hà Nam sớm thành một tỉnh phát triển toàn diện trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, là thông điệp làm nức lòng người.