Nếu muốn giải quyết êm thấm tình trạng “bong bóng” trên thị trường chứng khoán hiện tại, Việt Nam nên nhớ lại những bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á 1997-1998, đó là việc mở cửa thị trường vốn mới là công cụ điều tiết tốt nhất.
Cũng dễ hiểu tại sao Chính phủ Việt Nam lại lo lắng. Chỉ số VN-Index đã tăng 147% trong năm ngoái và hiện tại, đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế giới. Trong tháng một, ước tính 700 triệu USD vốn đầu tư được đổ vào Việt Nam, gần gấp đôi so với tháng trước đó và gần bằng cả quý 4 năm 2006.
Nhưng dòng vốn đầu tư lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài là đáng mừng chứ không đáng lo, nhất là đối với những nước mà chính phủ kiểm soát tốt tình hình và thị trường mở. Với kỳ vọng tăng trưởng GDP trung bình từ 7 % đến 8% mỗi năm, và có thêm nhiều doanh nghiệp nhà nước đang thiếu vốn đã lên kế hoạch cổ phần hóa trong vài năm tới, dòng vốn tự do có lẽ sẽ không tạo ra áp lực lạm phát quá lớn. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam, cho dù vẫn cao so với các tiêu chuẩn của khu vực nhưng đã giảm xuống ngay trong thời điểm đang bùng nổ làn sóng đầu tư vào năm ngoái.
Vậy tại sao phải lo ngại? Có lẽ nhiều người cho rằng dòng vốn đang chảy vào Việt Nam hiện tại có thể nhanh chóng chuyển hướng ra ngoài khi các nhà đầu tư thay đổi “cảm xúc”. Nhưng cách lý giải này bắt nguồn từ suy nghĩ chưa đúng về nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ở châu Á. Quá trình sụp đổ có thể khơi mào từ việc tích trữ tiền tệ, nhưng chính những khoản đầu tư không hiệu quả từ chính phủ trong nhiều năm kết hợp với những điều chỉnh bất hợp lý của ngân hàng đã dẫn đến tình trạng trên.
Cơ quan nghiên cứu của Quốc hội Mỹ đã nhận xét rằng nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính châu Á trầm trọng là do những nhà đầu tư “thiếu tin tưởng vào khả năng giải quyết vấn đề của chính phủ”. Sự thiếu tin tưởng này càng trầm trọng thêm do những sai lầm về mặt chính sách - như kiểm soát vốn - đã tách chính phủ ra khỏi những nguyên tắc thị trường.
Thêm vào đó, việc ngăn chặn dòng vốn chảy ra ngoài - nhất là trong tình trạng khủng hoảng - gần như là việc bất khả. Sau khi Chính phủ Malaysia đưa ra yêu cầu kiểm soát vốn năm 1998, chỉ trong vòng 3 năm, dòng vốn chạy ra khỏi thị trường ước tính vào khoảng 500 triệu USD mỗi tuần.
Còn Trung Quốc, mặc dù hiện đã ra một quy định thắt hơn việc quản lý tài khoản vốn, nhưng trong năm 2003 và 2004, vẫn nhận được trung bình 20 tỷ USD dòng vốn không chính thức chảy vào mỗi năm. Điều này diễn ra hoàn toàn ngược hẳn với thập niên 90, khi đó, các nhà đầu tư cá nhân ở Trung Quốc ngày càng ít đầu tư trong nước mà đổ hàng tỷ USD ra nước ngoài.
Câu chuyện của Trung Quốc là minh chứng rằng vốn sẽ chảy vào nơi nào nó muốn đến, bất kể có kiểm soát hay không.
Ngay cả khi không đổ vỡ ngay, việc xiết chặt vốn cũng mang lại những hậu quả không mong đợi vế mặt dài hạn. Những sai lầm lặp lại của Chile trong việc kiểm soát vốn vào năm 1990 là một thí dụ. Những chính sách hạn chế làm chậm không đáng kể dòng “tiền nóng”; thay vì vậy, nó lại làm tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ - hầu hết đều cần tiền đầu tư của nước ngoài. Một nhà kinh tế ước tính rằng cái giá phải trả cho việc này trung bình là 80 triệu USD mỗi năm năm tính theo giá USD năm 1999, tương đương với 0,1% GDP trung bình của Chile trong thập niên 90.
Chính phủ Việt Nam hiện đang khá thận trọng trước những biến động lớn của thị trường chứng khoán, điều gần như là chắc chắn sẽ xảy ra trong vài năm tới khi thị trường tài chính phát triển và những nhà đầu tư đánh giá sự phát huy thành quả kinh tế của chính phủ. Việc đối mặt với những thách thức của nguyên tắc thị trường sẽ giúp Chính phủ nhận được nhiều suy nghĩ tích cực hơn từ các nhà đầu tư.