Ông làm thơ không ít nhưng chỉ chọn in một tập năm 1987 tại Nhà xuất bản Văn học. Nhưng đây là một tập thơ khá tiêu biểu, còn để lại dư âm trong lòng người đọc lâu dài.
Ta hãy nghe ông nói vì sao ông làm thơ ?
Tôi làm thơ vì đâu?
Bạn ơi, tôi lớn dậy
Ðã thấy đời thương đau
Quân thực dân cướp nước
Quân phong kiến chẹn hầu
Sông núi ôi xương máu
Nhân dân ôi ngựa trâu...
...
Tôi làm thơ cách mạng
Xoay thiên hạ địa cầu.
Rõ ràng thơ của ông vì mục đích cách mạng. Rõ ràng thơ của ông là thi ngôn chí. Cũng phải hiểu chí ở đây bao gồm cả tình cảm cách mạng. Cái chí xoay chuyển cả thiên hạ, cả địa cầu ấy của ông và những người cách mạng ngày nay đã thành hiện thực chói sáng trước mắt chúng ta. Nước nhà đã hoàn toàn độc lập và thống nhất và đã tiến lên những bước tiến đem lại cho ta một vị trí đáng chú ý trên trường quốc tế. Chúng ta cũng có phần đóng góp lớn lao vào việc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân mới trên trái đất này. Thế nhưng ta cũng phải nhớ rằng cái chí đó, nhà thơ Xuân Thủy đã ôm ấp nó từ những ngày ông và các đồng chí của ông còn bị cùm xích trong các nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, Ban Mê và Sơn La. Ðó mới là điều đáng kể.
Tiêu biểu nhất trong tập Thơ Xuân Thủy là bài thơ Không giam được trí óc, một bài thơ đáng được khắc bia đá trong bảo tàng ở các nhà tù đế quốc để làm chứng tích lịch sử:
Ðế quốc tù ta, ta chẳng tù
Ta còn bộ óc, ta không lo
Giam người khóa cả chân tay lại
Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do.
Những câu thơ tự khẳng định nhân cách không gì lay chuyển được của một con người tự do trên trái đất này mang một tư tưởng nhân văn lớn mà bọn đế quốc không thể nào hiểu nổi. Xuân Thủy đã có một tầm nhìn phổ quát về vũ trụ, về loài người:
Ðời ta đã sẵn một con đường
Ý nghĩ ta đi khắp bốn phương
Ði đến hang sâu, vào ngục tối
Gọi hồn nhân loại, nén đau thương...
... Cửa kín tường cao bưng bít mấy
Ta nhìn vũ trụ vẫn bao la...
Thơ ông còn thổi lại cho ta luồng gió nóng của một tâm huyết: Sống và đấu tranh vì đất nước, vì cách mạng, bị lao tù khảo tra tàn khốc mà vẫn yêu đời vì tranh đấu. Cuộc sống của các "chính trị phạm" trong những nhà tù đế quốc dã man đến cực độ đã được thơ ông ghi lại bằng những nét vừa đầy sức tố cáo, vừa hài hước sâu cay, dù ở Hỏa Lò Hà Nội, hoặc nhà tù Sơn La, hoặc căng Bắc Mê:
Lại đến Sơn La lại núi rừng
Nằm trên đỉnh núi mà như bưng
Lờ mờ cửa ngục thông ba lỗ
Thăm thẳm hầm giam sâu mấy tầng
Tháng tháng cơm xôi đau cả bụng
Ðêm đêm sàn đá buốt sau lưng...
Những câu thơ đầy tình đồng chí, xót xa và thương cảm:
Ai ơi sốt rét đừng ra máu
Non nước chờ xem ta vẫy vùng
(Lại đến Sơn La)
"Ra máu" ở đây là đi tiểu ra máu. Phương ngôn có câu: "Nước Sơn La, ma Tạ Bú", ý nói đây là nơi ma thiêng nước độc, tù nhân thường bị sốt rét ác tính rất dễ tử vong. Tôi muốn nhấn thêm về cái chất hài hước lạ kỳ của nhà thơ cách mạng ngay giữa lúc thân thể bị đọa đày đau xé, với người thường thì đáng khóc được, thế mà tác giả lại cất tiếng cười, cái cười nhọn sắc chĩa vào kẻ thù cướp nước, cái cười vũ khí của niềm tin vào cuộc sống. Ðây là những câu trong bài Trong nhà tù:
Ðời ta nghĩ cũng lạ đời
Làm chi hôm sớm có người chăm lo
Mùa đông sẵn có "hỏa lò"
Mùa hè "nhà đá" tha hồ nghỉ ngơi
Ði đâu có Pháp đi bồi
Ở đâu có lính gác ngoài mái hiên!
Bài thơ còn vạch mặt tính giả nhân giả nghĩa của công sứ Pháp cho linh mục tuyên úy vờ vào thăm để an ủi tù nhân, nhưng thực ra để dò xét:
Một hôm cố đạo vào thăm
Hỏi han sức khỏe lương tâm thế nào?
Thưa rằng tôi chả làm sao
Lương tâm vẫn tốt, máu đào còn nguyên.
Cuộc đối thoại thật đáng bật cười và thú vị!
Viết về Bác Hồ, thơ Xuân Thủy đã cho ta sống những tình cảm trong sáng, hồn nhiên và đầy xúc động, như trong bài Ngày độc lập, cái ngày lịch sử diệu kỳ mà những thế hệ như chúng tôi không thể nào mờ phai trong ký ức:
Trên Chính phủ lễ đài lồng lộng
Hồ Chí Minh, Người bỗng hiện ra
Ka-ki bộ áo hiền hòa
Long lanh đôi mắt đậm đà chòm râu...
Và:
Hợp quần sức mạnh vô song
- Nghe tôi nói, có rõ không đồng bào?
Thưa rõ lắm, trời cao đất rộng
Lời mỗi lời rung động tâm can
Chao ôi ! Nước mất nhà tan
Hôm nay lại thấy giang san bốn bề.
Ta cũng không thể quên được cái chất bình dân, gần gũi với ca dao trong nhiều bài thơ Xuân Thủy. Có bài trong sáng đầy lạc quan như Ðề báo, Suối reo, tờ báo xuất bản tại nhà tù Sơn La mùa thu 1943:
Thu sang hoa cỏ già rồi
Suối reo lên để cho đời trẻ trung
Thu sang non nước lạnh lùng
Suối reo lên để cho lòng ta reo.
Có bài vừa thức tỉnh lòng yêu nước của những kẻ lầm đường vừa thông cảm với nỗi đau của những người vợ lính có chồng đi làm bia đỡ đạn cho giặc, bằng những lời thơ xúc động thấu tình, như bài Vợ lính gửi chồng:
Chao ôi! Anh chết thảm thê
Chết vì ai thế ? Chết vì theo Tây
Chết vì giặc nước căm thay
Ðời sau mai mỉa, đời nay chê cười
Anh ơi, súng ở tay ai?
Sao không quay lại diệt loài thù chung?...
Thơ tuyên truyền địch vận đấy, nhưng thấm thía lòng người, tình người như vậy đó !
Bài lục bát 600 năm Nguyễn Trãi vừa nói được cái cao cả của Nguyễn Trãi lại toát lên được tinh thần nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam:
Ðã lo cứu nước cứu nòi
Lại lo no ấm ngọt bùi cho dân
Rất hào hiệp, rất nhân văn
Xôn xao trái đất tinh thần Việt Nam.
Như vậy đó, trong thơ Xuân Thủy tính cách mạng và tính trữ tình lúc nào cũng lồng vào nhau nhuần nhuyễn.