Thị trường lao động biến động mạnh
Người lao động, với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, là nhân tố quan trọng nhất để TP Hồ Chí Minh phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, mấy năm qua, thành phố quan tâm phát triển nguồn nhân lực, từng bước hình thành thị trường lao động để thúc đẩy thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội. Lực lượng lao động của TP Hồ Chí Minh luôn tăng. Năm 2001 có 3,6 triệu lao động thì năm 2006 đã là 4,32 triệu, dự kiến năm 2010 là năm triệu lao động, chiếm 68% số dân thành phố. Trong số này, lao động nhập cư chiếm hơn 30%.
Cho nên, sức ép giải quyết việc làm là rất lớn. Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn 200 nghìn người, tạo ra hơn 50 nghìn chỗ việc làm mới từ các hoạt động kinh doanh, dịch vụ cá thể và hộ gia đình, chưa kể thu hút lao động vào các khu công nghiệp - khu chế xuất (KCN-KCX). Nhiều ngành nghề mới ở nông thôn ngoại thành ra đời thu hút thêm lao động nông nghiệp có việc làm ổn định. Những nỗ lực ấy đã góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn từ 6,8% xuống còn dưới 6%.
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực trọng yếu nhất để phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Vì vậy, thành phố đã tăng dần đầu tư hằng năm cho lĩnh vực này. Hiện nay, đầu tư cho giáo dục - đào tạo chiếm 24% ngân sách chi thường xuyên và 20% tổng ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản dành cho xây dựng trường, lớp.
Toàn thành phố hiện có 1.425 trường học với khoảng 1,2 triệu học sinh; 290 cơ sở dạy nghề, đào tạo 30.000 công nhân kỹ thuật và 300 nghìn học viên ngắn hạn. Xã hội hóa dạy nghề bước đầu phát huy hiệu quả. Nhiều trường đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố đã mở các lớp dạy nghề. Cơ sở dạy nghề ngoài công lập phát triển nhanh, đa dạng, chiếm 70% tổng số cơ sở dạy nghề. Nhờ vậy, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 27,4% năm 2001 lên 40% hiện nay.
Trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, đã xuất hiện một số mô hình đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, nhà trường gắn với doanh nghiệp, phục vụ phát triển kinh tế, tránh lãng phí lớn cho xã hội và bản thân người lao động. Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị tiên phong thực hiện mô hình đào tạo theo nhu cầu xã hội.
Nhà trường đã hợp tác với Trường đại học Tổng hợp HERIET WATT SCOTLAND (Anh) đào tạo kỹ thuật viên ngành dệt - may và thiết kế thời trang. Tập đoàn Intel (Mỹ) đã đầu tư vào Khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh với số vốn ban đầu 600 triệu USD và sẽ tăng lên một tỷ USD, đòi hỏi thành phố phải gấp rút đào tạo nguồn nhân lực cấp cao đáp ứng nhu cầu triển khai dự án. Vì vậy, Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố đã liên kết với Ðại học SUNDERLAND (Anh) đào tạo trình độ cao đẳng và kỹ sư điện - điện tử. Khóa sinh viên đầu tiên của chương trình hợp tác này đang học năm thứ hai.
TP Hồ Chí Minh có số lao động trẻ chiếm phần lớn trong lực lượng lao động. Ðây là nhân tố quan trọng kích thích nền kinh tế phát triển. Mặc dù vậy, khách quan nhận xét, thị trường lao động TP Hồ Chí Minh vẫn còn những bất cập, những biểu hiện tự phát và mất cân đối cung - cầu.
Một là, lực lượng lao động có những điểm yếu là trình độ chuyên môn, kỹ năng, tay nghề còn thấp do chất lượng đào tạo chưa cao, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp. Cơ cấu loại hình đào tạo còn chênh lệch quá lớn, 80% số lao động chỉ được đào tạo ngắn hạn. Nâng cao chất lượng lao động là yêu cầu lớn nhất không chỉ trong tình hình hiện nay mà cả trong nhiều năm sau nữa.
Hai là, nguồn nhân lực ở TP Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Nói đến thị trường lao động, trước hết là nói tới cung - cầu lao động. Khan hiếm lao động chất lượng cao có trình độ, kỹ năng làm việc và có khả năng nắm giữ một số vị trí chủ chốt của doanh nghiệp, nhưng hiện nay lại diễn ra nghịch lý: thiếu cả lao động phổ thông.
Giám đốc Trung tâm giới thiệu việc làm các KCN-KCX thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Tùng cho biết, ngay từ đầu năm 2007, các KCN-KCX thành phố cần tuyển 10 nghìn lao động phổ thông cho các ngành dệt - may, cơ khí, lắp ráp điện tử với mức lương khởi điểm một triệu đồng/người/tháng, nhưng tuyển dụng rất khó, chỉ đáp ứng 20% nhu cầu. Còn dư thừa lao động lâu nay cứ nghĩ chủ yếu là lao động giản đơn, không qua đào tạo, nhưng thực tế vẫn thừa cả kỹ sư, kỹ thuật viên đã qua đào tạo chính quy.
Nguyên nhân của sự lệch pha cung - cầu thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do sản phẩm đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Hàng loạt kỹ sư điện tử, tin học ra trường vẫn thất nghiệp trong khi doanh nghiệp vẫn kêu thiếu, là một thí dụ thực tế. Ngoài ra, còn do cung - cầu chưa gặp nhau vì thiếu một thiết chế cần thiết, đó là Trung tâm giao dịch việc làm.
Ba là, nguồn lao động liên tục biến động. Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Ðinh Kim Hoàng cho rằng, nguồn lao động luôn không ổn định, tỷ lệ lao động mất việc làm phải bố trí lại việc làm lớn. Lao động tại chỗ (người của thành phố) còn thất nghiệp khá nhiều, nhưng do thu nhập của các khu vực kinh tế còn chênh lệch lớn, cho nên họ không xin vào làm trong khu vực công nghiệp có thu nhập thấp... Do đó, lao động nhập cư tăng quá nhanh và rất dễ chuyển dịch.
Trong quá trình CNH, HÐH, nhiều doanh nghiệp đổi mới thiết bị hiện đại thay thế lao động phổ thông, làm cho không ít lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp nếu như họ không đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển. Mỗi năm có khoảng 40-50 nghìn người mất việc làm chủ yếu từ khu vực sản xuất. Những năm tới, tỷ lệ lao động tái thất nghiệp là khoảng 45 nghìn người, chiếm 20% số lao động trong số lao động được giải quyết việc làm. Những khó khăn nêu trên bộc lộ từ bấy lâu nay và sẽ còn tác động trực tiếp đến cung - cầu trên thị trường lao động.
Giải pháp đồng bộ
| |
Những năm tới, số dân thành phố tiếp tục tăng (dự báo tăng tự nhiên 1,1% và tăng cơ học 2,3%), như thế đến năm 2010, dân số thành phố Hồ Chí Minh sẽ là hơn 7,2 triệu người. Trong khi đó, thành phố đang tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm mạnh các ngành thu dụng nhiều lao động phổ thông, tăng các ngành kỹ thuật cao, thiết bị hiện đại, từ đó sẽ giảm tương đối nhu cầu lao động.
Ðồng thời, yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao chất lượng lao động, bởi lẽ khi nước ta gia nhập WTO, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh đó, lợi thế sẽ thuộc về nền kinh tế nào có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Vì vậy, trong kế hoạch tổng thể phát triển thị trường lao động đến năm 2010, thành phố xác định mục tiêu hằng năm giải quyết việc làm khoảng 240 nghìn lao động, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ 5,4% năm 2006 xuống dưới 5% vào năm 2010. Lao động qua đào tạo nghề đạt 55%.
Ðể thực hiện mục tiêu đó, thành phố đề ra nhiều giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách. Giải pháp trọng tâm để phát triển thị trường lao động là cần đổi lại cơ cấu chuyển dịch lao động gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phát triển các ngành kinh doanh. Từ năm 2007 đến 2010, cơ cấu lao động thu hút vào ba khu vực ngành nghề chủ yếu là dịch vụ chiếm 56% nhu cầu, công nghiệp 42% và nông nghiệp 2%.
Ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, sẽ phát triển mạnh các ngành dịch vụ cao cấp (tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm...) và công nghiệp mũi nhọn (cơ khí chế tạo, điện tử - viễn thông, công nghệ thông tin, công nghiệp hóa chất, dược phẩm, chế biến lương thực, thực phẩm). Nguồn "cung" lao động sẽ diễn ra phù hợp chuyển dịch ngành nghề trong các KCN - KCX là phát triển các ngành công nghệ cao, giảm dần các ngành gia công, sử dụng công nghệ thấp cần nhiều lao động phổ thông, như dệt - may, da giày.
Hướng phát triển thị trường lao động là đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực có hàm lượng chất xám cao. Ðồng thời, không coi nhẹ việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho một bộ phận không nhỏ lao động đang làm việc và những người chuẩn bị tham gia thị trường lao động.
Ðể có nguồn lao động có tay nghề dồi dào, giải pháp cơ bản, lâu dài là phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ dân trí và chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Phát triển dạy nghề theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng về số lượng, chất lượng lao động của các doanh nghiệp. Chuẩn hóa chương trình đào tạo gắn với thị trường lao động, phù hợp chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng địa phương, vùng và cả nước.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển ngành nghề mới, cơ sở sản xuất dịch vụ mới để tăng "cầu" cho thị trường lao động, tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động; mở rộng mô hình liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp. Thiết lập hệ thống thông tin thị trường, xây dựng thiết chế Trung tâm giao dịch việc làm ở địa phương và các vùng kinh tế trọng điểm nhằm thúc đẩy giao dịch việc làm.
Ðiều kiện để từng bước phát triển thị trường lao động một cách lành mạnh là cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tăng cường quản lý nhà nước bảo đảm bình đẳng, hài hòa lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động. Cần sớm tổ chức một thị trường thống nhất về cung - cầu lao động trong cả nước, trong từng vùng lãnh thổ.