Thuở còn trẻ, tôi và nhiều bạn cùng lứa tuổi nhớ nằm lòng mấy câu thơ thật xao xuyến:
"Năm tháng đắng cay hơn,
năm tháng ngọt ngào hơn
Em mới hiểu bây giờ anh có lý
Dù chuyện xong rồi,
Anh đã xa cách thế!
"Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa theo..."
Cứ thấm thía mà không nhớ ai viết, ai dịch hay đến thế. Ðến bây giờ cầm trong tay cuốn “Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX” mới rõ đó là thơ của Olga Bergholtz gửi người yêu đã hy sinh, do nhà thơ Bằng Việt dịch.
Tất cả gồm 300 bài thơ của 117 nhà thơ ở 40 nước khác nhau. Các nhà thơ có mặt trong sách đều được giới thiệu gọn tiểu sử, tầm vóc, vai trò, phong cách, tác phẩm chính. Rất chu đáo, dịch giả còn đưa ra cách phiên âm nhất quán, có thể tiếp nhận được.
Ở lời bộc bạch đầu sách, Bằng Việt vừa giãi bày tâm sự, tâm đắc trong việc tuyển dịch, vừa nêu một cách khái quát về thế kỷ 20, con người của thế kỷ 20 và thơ ca thế kỷ 20. Quả là phải có tài năng và bản lĩnh mới có thể thâu tóm gọn gàng, sâu sắc một thế kỷ thơ thế giới - dù chỉ một số gương mặt đáng nhớ - Ít nhiều gợi ta nhớ đến lời thâu tóm Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, Hoài Chân trong cuốn Thi nhân Việt Nam.
Theo Bằng Việt, thế kỷ 20 là một thế kỷ dữ dội, khốc liệt, "một thế kỷ đầy những biến cố vĩ đại, đã căng sức con người ra đến hết biên độ dao động của mình". Con người của thế kỷ 20 "từ sự chân thành yêu mến và khát khao những niềm vui bình dị của đời thường đã không ngần ngại dấn thân vào con đường theo đuổi lý tưởng và dám hy sinh vì lý tưởng".
Còn thơ thế kỷ 20, theo tôi, Bằng Việt đã cảm nhận bốn đặc điểm nổi bật: Thứ nhất là, thơ đặt sau, đặt dưới cuộc sống. Thứ hai là, đó là thơ chiến đấu, thơ của thời chiến tranh. Thứ ba là, "có cả một mảng thơ vừa báo động vừa giễu cợt về những mặt trái của đời sống đô thị hóa, công nghiệp hóa". Thứ tư là, thơ thế kỷ 20 đa phong cách và vượt qua nhiều khuynh hướng. Tựu trung lại, với góc nhìn Bằng Việt, thơ ca thế kỷ 20 đi trên con đường lớn của nó, rất đậm chất chính trị từ trong cốt lõi.
Vì thế, thơ của thế kỷ trước nói nhiều về Tổ quốc, về sự mất còn của Tổ quốc và sự hy sinh vì lý tưởng cao quý. Thơ thế kỷ 20 cũng thường đau đáu về số phận con người, về "thế hệ chúng tôi". Sau khi nêu bao nhiêu sự biến đổi ghê gớm, nhà thơ Bồ Ðào Nha G.Ðê. Xê-na khẳng định: "Chỉ duy nhất cuộc đời không biến thành nhân tạo - Với những số phận người - khác biệt đến thần kỳ - Với mọi nỗi thăng trầm không một ai đoán định" (Thiên đường nhân tạo).
Thật ra ý tưởng thơ ấy không phải là khám phá mới nhưng nó chân thực. Dù ném ra "những vần thơ trách nhiệm", dùng những lời gan ruột cay xót, thơ trữ tình thế kỷ 20 cũng vẫn "muốn nói bằng ngôn ngữ của tình yêu" như Y. Rít-xốt - một nhà thơ Hy Lạp - vật vã tuyên ngôn "Tôi muốn nói bằng ngôn ngữ của tình yêu".
Ðiều đáng tiếc là trong biển thơ mênh mông của thế kỷ 20, không thấy một cuộn sóng thơ Trung Hoa - đất nước của Ðường thi, Tống từ nổi tiếng. Cũng dễ hiểu thôi, nhà thơ Bằng Việt học ở Liên Xô nên "thuộc" nhiều thi nhân Nga hơn. Vả lại thế hệ chúng tôi, lứa Bằng Việt, vẫn hằng nghĩ nước Nga là cường quốc của thơ ca, tiểu thuyết. Chúng tôi từng đã và còn yêu thích nhiều bài thơ thế giới, đặc biệt là những bài thơ Nga quen thuộc một thời. Ðương nhiên, một tuyển tập đa dạng như thế này cũng khó mà toại nguyện mọi bạn đọc. Nhưng hầu hết đáng đọc và không ít thi phẩm đã in sâu vào tâm trí người ta, như những lời rất ấn tượng của nhà thơ E.Ét-tu-sen-cô mà Bằng Việt vừa chuyển nghĩa chữ và truyền được cái thần của thơ:
"Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử,
Mỗi số phận rất riêng, dù rất nhỏ
Chắc hành tinh nào đã sánh nổi đâu?”