Thần linh ơi, ta có các già làng

Rừng sâu đầy bí hiểm. Nhưng rừng sâu cũng là điểm tựa, là chốn nương thân, bởi cuộc đời ta gắn bó với rừng. Ơ thần Núi, thần Sông, thần Mưa, thần Gió, thần Lửa! Thần của các thần!... Ðó là  câu mở đầu cho mọi bài cúng, là tiếng kêu gọi thiết tha của các nhân vật trong những bản trường ca hùng tráng dài bất tận, được miệng người già kể, rồi sau đó lan truyền sang con cháu, các thành viên của cộng đồng, từ đời này qua đời khác, như là sự nhắc nhở rằng, cái Núi, cái Sông, cái Lửa, cái Gió, cái Mưa kia không phải tự nhiên mà có. Nó có được là nhờ sự kỳ diệu của thần linh (Yàng). Yàng vừa là Trời, vừa là thần linh như người Việt vẫn thường gọi, nhưng có cái khác, ấy là ở nơi đây, mỗi vật dụng đều có Yàng của mình.

Mỗi loài cây, loài con cũng có Yàng của mình. Ðối với con người ta, Yàng là thần linh, lại cũng là bạn, là một thành viên trong sinh hoạt cộng đồng, có ưu có khuyết, có đúng có sai. Ưu thì ta học, ta theo. Khuyết thì ta làm lễ "phê bình", nếu quá nữa ta làm lễ chia tay "ly dị" luôn! Tất thảy, nhất nhất đều được hội đồng già làng xét xử và vị già làng có tín nhiệm nhất ra quyết định.

Các già làng không phải là thần linh, nhưng các già làng luôn luôn là chỗ dựa tinh thần cho cả cộng đồng. Buôn làng nào có nhiều người già, buôn làng đó ắt giàu sang hơn, hùng mạnh hơn. Một buôn làng có thể thiếu một vài chức danh với một vài vai trò, nhưng chức danh già làng, vai trò của già làng thì không thể thiếu một ngày, mặc dù chức danh ấy hình thành tự nhiên, không  qua bất kỳ thủ tục bầu bán hành chính nào.

Cũng giống như mỗi dàn ching chiêng đều phải có chiêng Cái, chiêng Con, chiêng Núm, chiêng Bằng, cái "đi" giai điệu, cái "cầm" nhịp cho cả dàn. Những dàn cồng chiêng lớn thì trống Cái vừa giữ nhịp vừa tôn giai điệu, giữ cho sắc thái của giai điệu luôn luôn giàu sinh lực và đẹp về sắc điệu, cho nên người ta thường ví già làng như là trống Cái. Già làng cầm trịch mọi sinh hoạt đời sống văn hóa tinh thần của bà con buôn làng. Già làng có cái tai nghe được cả dàn ching chiêng, già biết nghe và nhận ra ngay cái nào "đi" đúng, cái nào để lỡ nhịp, tách đàn.

Và bằng khả năng trực giác nhạy cảm của mình, già so chiêng, giống như lên dây đàn vậy. Công việc so chiêng không hề đơn giản, nó linh thiêng, cầu kỳ và huyền bí, khi cánh tay già giơ lên hạ xuống, theo cánh tay ấy là tiếng gõ điều chỉnh, không phải riêng cho một cái nào,  mà già điều chỉnh lại cả dàn luôn, điều chỉnh lại cả tiết tấu, nhịp điệu lẫn truyền cả cái hồn sang cho người đánh, người đánh phải biết thổi hồn mình vào trong từng lá chiêng...

Khi con cháu dựng ngôi nhà rông cho buôn làng mình, vai trò của hội đồng già làng đặc biệt quan trọng. Tất cả vì vẻ đẹp truyền thống của buôn làng ta. Ta không thể thiếu được ngôi nhà rông, nơi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Cũng như trong các ngày lễ hội, nếu không có già làng thì liệu có thành được lễ hội không?

Tối tối, trong những ngôi nhà sàn bình yên bên bếp lửa hồng, những người già thường tới nhà già làng trò chuyện. Già làng là trung tâm đoàn kết, là kho báu kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm ứng xử. Ứng xử với thiên nhiên khi sấm sét, lũ lụt. Khi mưa to, bão lớn. Khi núi lở, sông cạn. Khi có thú dữ loạn rừng. Khi hạn hán kéo dài vân vân.Và... Già làng chính là pho tư liệu luật tục ngàn đời truyền lại. Là cuốn từ điển bách khoa, giúp cho con cháu biết điều hay lẽ phải, biết cái đúng, cái sai để ứng xử trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên.

Những cô gái Ba Na, Gia Rai thường tỏ điều tâm sự của mình cùng cây đinh yơng: Ðinh yơng già làng làm cho mình đấy. Già làng bảo, khi nào trong bụng mày có điều buồn, nếu không tâm sự được với ai thì đêm đêm đem đinh yơng ra thổi. Ðinh yơng là nhạc cụ chỉ dành riêng cho lũ đàn bà, con gái. Nỗi buồn của riêng ta, ta để trong lòng, nhưng nếu ta không trút được vào trong hơi thở, vào trong âm thanh thì thầm của đinh yơng thì ta sẽ trở nên cô đơn, trở nên yếu đuối, ngập chìm trong cõi u mê. Ðinh yơng là người bạn tâm tình của ta. Ta nhập hồn ta vào trong ống nứa...

Bà cụ trăm tuổi của làng ta là niềm tự hào chung của cả cộng đồng. Cụ bà tồn tại như là sự hiện diện của lòng kiêu hãnh của buôn làng trước vị thần Thời Gian linh thiêng và huyền bí. Trong các bản trường ca cổ của dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê Ðê, Mơ Nông, Xê Ðăng, Giẻ Triêng... thường xuất hiện các tù trưởng là nữ. Nhưng già làng thì vẫn là các vị đàn ông cao niên tài giỏi, thời trai trẻ đã từng là những tay lao lừng danh, tay rựa sắc bén, tay ná cự phách. Già làng từ thời cổ xưa đã có nhiều quyền uy, cái quyền uy không mang chút xíu dấu ấn nào của bạo lực, của cường quyền mà là cái quyền uy linh thiêng, được xuất phát từ lòng ngưỡng mộ, tôn sùng vì đức trọng, tài cao, uy danh lừng lẫy.

Những điệu múa mà người Ba Na, người Gia Rai đều gọi là "xoang". Những bước xoang bước theo nhịp của cồng chiêng, theo sự dẫn dắt của cồng chiêng. Âm nhạc cồng chiêng là tiếng lòng của người Tây Nguyên, là niềm vui và cả nỗi buồn. Cồng chiêng ơi, ta đứng về phía các già làng, về phía rừng già và hãy ngân vang lên theo tiếng nước chảy bình yên của từng con suối, dòng sông. Hãy ngân vang lên theo tiếng hú bất tận của lớp lớp con cháu nối theo tiếng H'ri, H'amon, Akhan truyền đời thiêng liêng của các già làng.

Mỗi bến nước, miền quê mang theo tên đất, tên làng, vì buôn làng gắn liền với tuổi thơ ta. Tuổi thơ ta gắn liền với bến nước, dòng sông và bến nước gắn liền với cả  đời người. Dù nơi đó ở tít trong rừng sâu hay ngoài bờ ruộng, bìa nương, cuối rẫy, thì bến nước này, giọt nước này, là do già làng ta chọn, dân làng ta chọn. Chọn bến nước, chọn giọt nước, ấy là chọn nơi cư trú cho mình, chọn sự giàu nghèo trong tương lai cho cộng đồng mình.

Những tấm thổ cẩm với muôn ngàn đường hoa văn rực rỡ lại được dệt  nên bởi những bàn tay chai sạn, cần cù mà già làng có thể chỉ ra cho ta hiểu ý nghĩa mỗi chi tiết hoa văn, mỗi đường tơ, mũi chỉ lên xuống trập trùng. Tấm dồ chàng Ðam San, tấm hà bành nàng Hơ Bia, dây khố kơtenl chàng Ðăm Noi cùng với tiếng rung vòng đồng, tiếng ngân vòng bạc ngày làng ta rước Mẹ Lúa về kho, làm lễ hội samăk (ăn cốm) dưới trăng rộn ràng tiếng hát ca vây quanh già làng, trước cây nêu thần, trước ghè rượu thần, trước đống lửa thiêng của thần Núi, thần Sông, thần Gió, thần Nước.

Từ đỉnh Ngọc Linh đến núi Chư PơRông. Từ dòng Sê San đến nước sông Ba. Từ Biển Hồ đến vùng đất thiêng trù phú Ayun Pa, những nông trường cà-phê, cao-su ngút ngàn xanh, những đập nước thủy lợi như Ayun Hạ, những đại công trình thủy điện như Ia Ly, nơi đâu trên khắp các buôn làng, từ xa xưa cho tới bây giờ, đều ghi đậm dấu chân của các già làng.

Tôi đã từng nhiều lần được chứng kiến cảnh những người mẹ trẻ, như cô H'Ngưl, bạn tôi, mẹ của ba đứa con đến trình với các già làng về việc anh chồng suốt ngày say xỉn không giúp gì cho vợ con. Những lời khuyên răn của các già làng chính là chỗ dựa cho chị, giúp chị hiểu chồng mình hơn, để biết cách mà dìu anh ta ra khỏi cái ghè rượu có thần linh, nhưng cũng có tà ma núp trong đó. Chị về, làm theo lời của già làng, và ngay sau những ngày đầy âu lo ấy là niềm vui, anh chồng chị biết tự trị con ma trong ghè rượu nhà mình và cũng tự biết mình phải làm gì.

Thần linh ơi, ta có các già làng! Ðó là lời một câu hát và đó cũng là lời phong tặng của cộng đồng cho các bô lão uy danh của mình.

Có thể bạn quan tâm