Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa Đại hội,
Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội. Được sự cho phép của Đoàn Chủ tịch Đại hội, chúng tôi xin tham luận với chủ đề “Phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Kính thưa Đại hội,
Giảm nghèo, chăm lo cho người nghèo và các đội tượng chính sách xã hội là một chủ trương lớn, xuyên suốt, là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; kết quả xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành quả nổi bật của thời kỳ đổi mới, góp phần tích cực phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh của đất nước.
Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng trung du và miền núi phía bắc, nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc, diện tích tự nhiên gần 6.900 km2, dân số trên 82 vạn người với hơn 30 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 57,4%; dân cư nông thôn chiếm gần 80%, lao động nông nghiệp chiếm gần 60%. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện vùng cao đặc biệt khó khăn (30a) là huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải, với trên 90% đồng bào dân tộc thiểu sổ, chủ yếu là người Mông; có 173 xã, phường, thị trấn, trong đó có 80/150 xã đặc biệt khó khăn và 461/1.349 thôn, bản đặc biệt khó khăn[1].
Cũng như các tỉnh miền núi phía bắc, Yên Bái bước vào thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với rất nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả điều tra hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 32,21%, cao thứ 6 toàn quốc; trong đó phần lớn tập trung tại các địa bàn vùng cao, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, riêng tại 2 huyện 30a đều có tỷ lệ hộ nghèo trên 75%, thuộc vào nhóm các huyện nghèo nhất cả nước.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đó là: địa hình đồi núi chia cắt mạnh, thường xuyên chịu tác động của thiên tai; hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng bộ, giao thông đi lại khó khăn; diện tích đất canh tác hạn chế, người dân còn thiếu tư liệu sản xuất; trình độ dân trí không đồng đều, chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật; đồng bào dân tộc còn nhiều hủ tục, tập quán, thói quen canh tác lạc hậu; hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, tư duy, nhận thức và công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền trong công tác giảm nghèo còn hạn chế, bất cập; một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không có ý chí vươn lên thoát nghèo.
Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của Chính phủ về công tác giảm nghèo, những năm qua, Đảng bộ tỉnh Yên Bái luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, sau 5 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 7,04% (đứng thứ 12 toàn quốc, cải thiện 6 bậc so với đầu nhiệm kỳ). Bình quân giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ giảm hộ nghèo toàn tỉnh đạt 5,03%/năm (bằng 125% kế hoạch đề ra đầu nhiệm kỳ), riêng tại hai huyện 30a giảm bình quân 8,32%/năm; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và của cả nước. Số xã đặc biệt khó khăn giảm 26,3%, còn 59 xã; số thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm 16,9% còn 383 thôn, bản. Trong những năm qua, tỉnh Yên Bái đã thực sự đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp thiết thực, sáng tạo, hiệu quả, cụ thể là:
Một là, quán triệt, triển khai nghiêm túc, kịp thời các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chương trình của Trung ương về giảm nghèo; cụ thể hóa thành chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2015-2020), các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác toàn khóa và hàng năm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Để triển khai Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho cả giai đoạn; hằng năm, Tỉnh ủy Yên Bái đều ban hành Chương trình hành động lãnh đạo thực nhiệm vụ chính trị của năm[2] và Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo trong năm[3] theo phương châm “giao nhiệm vụ, khoán sản phẩm”. Trong đó, giao chỉ tiêu giảm nghèo cho từng huyện, thị, thành phố; đồng thời, phân công nhiệm vụ, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp cấp tỉnh[4] phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương để trực tiếp tuyên truyền, vận động, hỗ trợ, giúp đỡ từ 20-50 hộ nghèo/năm (có địa chỉ cụ thể) tại các xã đặc biệt khó khăn mà cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó được phân công hỗ trợ, giúp đỡ thường xuyên.
Hai là, tích cực tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thay đổi căn bản về nhận thức và thống nhất trong hành động của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là bà con đồng bào dân tộc thiểu số về công tác giảm nghèo.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng chung sức thực hiện mục tiêu giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới với các phong trào thi đua sâu rộng, lan tỏa trong toàn xã hội như: phong trào“Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thông mới, đô thị văn minh”, “Ngày thứ Bảy cùng dân” của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc; phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh, giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” của Hội Nông dân; phong trào “Xây dựng gia đình năm không, ba sạch”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo” của Hội Phụ nữ; phong trào “Ba đến, ba cùng”, “Nâng cánh ước mơ” của Đoàn Thanh niên; phong trào “Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi” của Hội Cựu chiến binh…
Đặc biệt là phát huy vai trò chủ thể của người dân trong việc chủ động đóng góp công sức, trí tuệ, nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”, đưa việc thực hiện giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trở thành nhu cầu, là khát vọng của các tầng lớp nhân dân. Trong 2 năm 2019 và 2020, toàn tỉnh đã có 333 hộ nghèo có đơn tự nguyện xin thoát nghèo.
Ba là, triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ sinh kế cho các hộ nghèo, cận nghèo thông qua việc thực hiện lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình hỗ trợ có mục tiêu khác. Đồng thời với việc thực hiện các chính sách, dự án theo quy định của Trung ương, đã tập trung xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bố trí ổn định dân cư, gắn với ban hành đồng bộ, kịp thời bộ cơ chế, chính sách, đề án riêng của tỉnh về hỗ trợ phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo theo hướng tích hợp, đồng bộ với các chính sách của Trung ương và phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương để phát huy tiềm năng, lợi thế và các yếu tố đặc thù của từng địa bàn, khu vực trong tỉnh[5].
Hỗ trợ tư liệu sản xuất, nhất là đất sản xuất, kết hợp với vận động, hỗ trợ nông dân vùng cao đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, xóa bỏ tập quán, thói quen canh tác lạc hậu, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng sất, chất lượng, giá trị của sản phẩm; đồng thời mở rộng liên kết sản xuất (theo nhóm hộ, thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã), từng bước phát triển các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa tập trung theo chuỗi giá trị[6] gồm các sản phẩm chủ lực, đặc sản, OCOP. Quan tâm phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác kết hợp với đẩy mạnh thu hút các thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Đến hết 2020, tỉnh Yên Bái có 75/150 xã đạt chuẩn nông thông mới, bằng 50% tổng số xã của toàn tỉnh[7], cao gấp 1,35 lần bình quân chung của vùng Trung du và miền núi phía Bắc (37%), gấp 1,85 lần bình quân chung khu vực Tây Bắc (27%), gấp 3 lần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, trong đó có 12 xã đặc biệt khó khăn (chiếm 16%). Thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng gấp 2,0 lần so với năm 2015.
Bốn là, quan tâm đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống đường giao thông[8], thủy lợi, cơ sở khám chữa bệnh (ưu tiên tuyến cơ sở), trường học, hạ tầng phát thanh, truyền hình, viễn thông, ưu tiên cho các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng, phát triển sản xuất, kết nối giao thương, nâng cao thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu của người dân, nhất là các hộ nghèo, cận nghèo.
Năm là, chăm lo phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, nhất là tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục vùng cao, giáo dục dân tộc[9]. Hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách xã hội[10], nâng cao năng lực hệ thống y tế cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Bảo đảm chính sách an sinh xã hội, tích cực hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo[11]. Chú trọng làm tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn[12] để mở rộng sinh kế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động trên địa bàn tỉnh, nhất là lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, lao động khu vực nông thôn.
Sáu là, huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo. Trong điều kiện của một tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, bên cạnh các nguồn lực của ngân sách nhà nước, tỉnh đã vận động, huy động đa dạng các nguồn lực xã hội hóa để tăng cường hỗ trợ cho công tác giảm nghèo[13].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giảm nghèo của tỉnh Yên Bái thời gian qua vẫn còn một số mặt khó khăn, tồn tại, hạn chế, cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là: (1) Mặc dù tốc độ giảm nghèo nhanh, nhưng tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo vẫn còn cao so với bình quân chung cả nước[14], một bộ phận hộ đã thoát nghèo ở các địa bàn thường xuyên chịu tác động của thiên tai vẫn có nguy cơ cao tái nghèo; (2) Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân ở cơ sở vẫn còn có mặt hạn chế, chưa quyết tâm, quyết liệt thoát nghèo; (3) Việc hỗ trợ sinh kế, thu nhập đối với người dân tại các địa bàn vùng cao mà nguồn thu nhập chủ yếu từ chính sách nhận khoán quản lý, bảo vệ rừng (đối với rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên) còn gặp nhiều khó khăn; (4) Việc đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là lưới điện quốc gia[15], hạ tầng giao thông đối với địa bàn vùng sâu, vùng cao còn nhiều khó khăn, đòi hỏi nguồn lực lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của địa phương, ảnh hưởng đến tiến trình giảm nghèo; (5) Một số chính sách liên quan đến giảm nghèo ban hành chưa kịp thời, còn có điểm bất cập, chưa bố trí đủ nguồn lực, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và hiệu quả của chính sách.
Kính thưa Đại hội,
Qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, tỉnh Yên Bái đúc rút được một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, các cấp ủy, chính quyền phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo, xác định giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; gắn việc hoàn thành các mục tiêu giảm nghèo với trách nhiệm của người đứng đầu và cấp ủy các cấp, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, phải đặt người nghèo, hộ nghèo vào vị trí chủ thể, trung tâm của hoạt động giảm nghèo; làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục để thay đổi căn bản tư duy, nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội, đặc biệt là giải phóng tư tưởng để người dân phát huy tinh thần tự lực, tự trọng, có khát vọng và chủ động nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, phải xác định rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan của tình trạng đói nghèo, thường xuyên rà soát, đánh giá, phân tích hiện trạng hộ nghèo, hộ cận nghèo của toàn tỉnh, từng huyện, từng xã; trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giảm nghèo bảo đảm cụ thể, sát thực với các giải pháp căn cơ, bài bản, đồng bộ, thống nhất và cách làm sáng tạo, linh hoạt, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn, nút thắt, hỗ trợ người dân vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, chương trình giảm nghèo phải được thực hiện đồng bộ với chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình hỗ trợ có mục tiêu khác; tập trung hỗ trợ mở rộng sinh kế, phát triển sản xuất, tăng thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu cho người nghèo. Các chính sách hỗ trợ phải thiết kế khoa học, hợp lý để hộ nghèo, hộ cận nghèo dễ dàng tiếp cận, triển khai; chú trọng nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, bền vững.
Thứ tư, đồng thời với các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo, cần quan tâm ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chăm lo phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, nhất là y tế, giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn tại các huyện nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ năm, trong điều kiện một tỉnh miền núi, tỷ lệ hộ nghèo cao, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, cần huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu giảm nghèo; trong đó cùng với nguồn lực nhà nước cần tranh thủ vận động đa dạng các nguồn lực ngoài nhà nước.
Kính thưa Đại hội,
Báo cáo chính trị và Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 05 năm 2021-2025 của Ban Chấp hành Trung ương trình tại Đại hội đã xác định mục tiêu cho giai đoạn tới là “Tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0 - 1,5% hằng năm”, đồng thời đề ra nhiệm vụ, giải pháp “Nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và triển khai có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2020-2030, bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc”.
Đối với tỉnh Yên Bái, nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2020 – 2025) xác định mục tiêu phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”, trở thành tỉnh khá của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2025; trong đó tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân trên 4,0%/năm, riêng hai huyện 30a giảm bình quân trên 5,5%/năm[16]; đến năm 2025 huyện Mù Cang Chải cơ bản không còn là huyện nghèo, ít nhất 40 xã đặc biệt khó khăn đạt tiêu chí nông thôn mới.
Để thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, Tỉnh ủy Yên Bái kiến nghị, đề xuất một số nội dung cụ thể như sau:
Một là, trên cơ sở Nghị quyết được Đại hội thông qua, đề nghị Chính phủ sớm trình Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; trong đó cần thiết kế hợp lý để tránh trùng lắp về đối tượng, nội dung, phương thức hỗ trợ của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương sớm phê duyệt chương trình và hướng dẫn cụ thể để các địa phương triển khai thực hiện.
Hai là, đề nghị Trung ương tiếp tục quan tâm, dành nguồn lực đầu tư cho các tỉnh miền núi; trong đó, ưu tiên đầu tư cho hệ thống giao thông kết nối vùng, liên vùng và kết nối các tỉnh miền núi, các huyện nghèo trong vùng; hạ tầng lưới điện quốc gia; các công trình dự báo, cảnh báo và phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; tiếp tục bố trí nguồn lực sớm hoàn thành việc sắp xếp và bố trí lại dân cư, di dân ra khỏi khu vực có nguy cơ cao bị lũ ống, lũ quét và sạt lở đất, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của thiên tai tới đời sống và sản xuất của nhân dân.
Ba là, khu vực miền núi phía Bắc, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, là địa bàn có tỷ lệ che phủ rừng cao so với bình quân chung cả nước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo cũng cao nhất cả nước; sinh kế của người dân chủ yếu gắn với kinh tế lâm nghiệp, đồi rừng. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu vừa giảm nghèo bền vững, vừa góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, môi trường sinh thái đầu nguồn, đề nghị Trung ương nghiên cứu có chính sách đặc thù hỗ trợ các địa phương trong quản lý, phát triển, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước và phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, đề nghị Trung ương nghiên cứu, ban hành Nghị quyết mới, thực hiện trong giai đoạn tiếp theo để các địa phương trong vùng, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc có cơ sở triển khai thực hiện, thu hẹp dần khoảng cách với trình độ phát triển chung của cả nước.
Kính thưa Đại hội,
Một lần nữa, thay mặt cho Đoàn Đại biểu tỉnh Yên Bái, xin kính chúc Đoàn chủ tịch cùng các đại biểu dự Đại hội sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc Đại hội thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn.
------
[1] Trước khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, toàn tỉnh có có 180 xã, phường, thị trấn, với 2.349 thôn, bản, tổ dân phố, trong đó có 81/157 xã đặc biệt khó khăn và 814/2.349 thôn, bản đặc biệt khó khăn.
[2] Chương trình hành động số 144-CTr/TU năm 2019, Chương trình hành động số 190-CTr/TU năm 2020, Chương trình hành động số 18-CTr/TU năm 2021 của Tỉnh ủy về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của năm.
[3] Kế hoạch số 131-KH/TU năm 2019 và Kế hoạch số 170-KH/TU năm 2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
[4] Gồm 66 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
[5] Giai đoạn 2016-2020 Yên Bái đã tích hợp, ban hành tổng cộng 35 đề án, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo, trong đó có tính đến yếu tố đặc thù phát triển của vùng cao, vùng thấp...
[6] Đến nay đã triển khai hiệu quả 30 dự án phát triển sản xuất liên kết theo chuối giá trị, với tổng kinh phí 225 tỷ đồng, ngân sách nhà nước hỗ trợ 77 tỷ đồng.
[7] Nếu tính cả các xã nông thôn mới đã sáp nhập thì đã có 81/157 xã đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 51,6%.
[8] Trong giai đoạn 2016-2020 đã đầu tư xây dựng mới, cứng hóa được 1.626 km đường giao thông nông thôn, với tổng nguồn vốn là 2.176,8 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn xã hội hóa và Nhân dân đóng góp là 326,4 tỷ đồng (15%).
[9] Tỉnh Yên Bái đã ban hành và thực hiện Đề án sắp xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp học, xóa các điểm trường lẻ, đưa về điểm trường chính, thu gọn đầu mối các trường; đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp học; mở rộng quy mô các trường PTDT nội trú, bán trú, trường có học sinh bán trú; có chính sách riêng của tỉnh hỗ trợ học sinh và giáo viên, nhân viên phục vụ các trường nội trú, bán trú, trường có học sinh bán trú… qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và đảm bảo công bằng trong giáo dục vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
[10] Đến hết 2020, tỷ lệ người dân than gia bảo hiểm y tế toàn tỉnh đạt 97,1%.
[11] Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ về nhà ở cho gần 5.600 hộ nghèo, hộ khó khăn trên địa bàn tỉnh với mức kinh phí hơn 223 tỷ đồng. Trong năm 2020, tỉnh Yên Bái đã ban hành và thực hiện Đề án hỗ trợ nhà ở cho 929 hộ gia đình người có công với cách mạng và hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng kinh phí thực hiện là 108 tỷ đồng, trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 11,8 tỷ đồng, còn lại là nguồn kinh phí xã hội hóa.
[12] Giai đoạn 2016-2020 đã ban hành và thực hiện Kế hoạch đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn, trong đó đã hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho hơn 94.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
[13] Giai đoạn 2016-2020 đã huy động được gần 16.900 tỷ đồng, bao gồm nguồn kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và nguồn kinh phí lồng ghép từ các dự án, đề án, chương trình để thực hiện mục tiêu giảm nghèo; trong đó, nguồn vốn xã hội hóa huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức, đoàn thể, cộng đồng và Nhân dân là hơn 412 tỷ đồng (chưa bao gồm các nguồn vốn xã hội hóa để hỗ trợ cải thiện nhà ở cho hộ nghèo).
[14] Đến hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo còn 7,04%, cận nghèo còn 8,37%.
[15] Đến hết năm 2020, toàn tỉnh Yên Bái vẫn còn 59 thôn, bản chưa có lưới điện quốc gia.
[16] Tính theo chuẩn nghèo đa chiều mới áp dụng cho giai đoạn 2021-2025.