Thách thức trên cánh đồng mẫu lớn

NDĐT- Kể từ khi thí điểm mô hình, đến nay công tác triển khai cánh đồng mẫu lớn đã để lại nhiều kinh niệm quý cho dù thực tiễn còn chưa xác định rõ tiêu chí thế nào là “lớn” bởi đặc điểm canh tác nông nghiệp giữa các vùng, miền khác nhau, bên cạnh đó là sự tiềm ẩn nhiều bất ổn do chưa điều hòa được lợi ích của các "nhà".

Thách thức trên cánh đồng mẫu lớn

Khó xác định tiêu chí

Ngày 25-10-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vẫn chưa thể ra thông tư chi tiết hướng dẫn.

Nguyên nhân chủ yếu do khó khăn trong việc xác định tiêu chí "cánh đồng lớn" và tiêu chí "hỗ trợ" do sự khác nhau về năng lực và cách thức sản xuất lúa gạo giữa các vùng, miền. Đồng thời nguồn ngân sách địa phương hỗ trợ là rất hạn chế cũng như thủ tục triển khai phức tạp.

Theo đó, khi quy định doanh nghiệp (DN) được hỗ trợ là phải có hợp đồng trực tiếp hoặc liên kết với các DN khác để cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất, gắn với mua nông sản của hộ nông dân hoặc tổ chức đại diện của nông dân trong dự án cánh đồng lớn. Đồng thời phải có vùng nguyên liệu bảo đảm ít nhất 50% nhu cầu nguyên liệu và có hệ thống sấy, kho chứa, cơ sở chế biến bảo đảm yêu cầu sản xuất kinh doanh của DN theo hợp đồng.

Thực tế cho thấy, yêu cầu DN đã có hệ thống sấy và kho chứa mới được hỗ trợ, là quy định vô cùng khó khăn. Ở đây, nguyên nhân chủ yếu là DN nông nghiệp không đủ vốn để đầu tư cho hệ thống sấy và kho bãi lưu trữ. Ngoài ra, hệ thống này chỉ được sử dụng một năm hai vụ, còn nhiều tháng không sử dụng nên hiệu quả không cao.

Lý do chủ yếu là để tránh sâu bệnh, sản xuất nông nghiệp triển khai gieo sạ đồng loạt trên toàn vùng. Và khi đã sạ đồng loạt thì thu hoạch cũng đồng loạt. Với diện tích hàng triệu ha lúa được thu hoạch đồng loạt, thì không thể có đủ các cơ sở sấy và xay xát bảo đảm chất lượng cho thu hoạch.

Bên cạnh đó, để đầu tư mở rộng xây thêm nhà máy sấy thì ngân hàng không muốn cho vay vì nhà máy chỉ sử dụng công suất cho một năm hai vụ còn phần lớn là “thời gian chết” không sử dụng.

Được biết, ngay cả các công ty có vốn đầu tư từ các quỹ nước ngoài lớn như Công ty Thuốc bảo vệ thực vật An Giang cũng không đủ năng lực để triển khai sấy và xay xát đồng loạt.

Như vậy, khi đã không đủ năng lực thì lại không đủ điều kiện để được hỗ trợ theo tiêu chí hỗ trợ của cánh đồng lớn. Tương tự, cùng với một khoản tiền đầu tư, DN sẽ đầu tư vào lĩnh vực có khả năng sinh lời cao thu hồi vốn nhanh thay vì đầu tư vào xây dựng nhà máy sấy.

Bên cạnh đó, mô hình cánh đồng lớn vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Chẳng hạn, chỉ cần một hợp đồng đầu ra mất khả năng thanh toán hay vụ mùa bị ảnh hưởng bởi thời tiết và thiên tai thì cũng sẽ ảnh hưởng đến các cam kết của triển khai cánh đồng lớn. Các DN vùng đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn không tính đến vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất và các biện pháp phòng tránh thiên tai là rất yếu.

Chưa điều hòa được lợi ích các bên

Việc không kiểm soát được nguồn gốc giống lúa và thuốc bảo vệ thực vật có thể kéo theo sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đặc biệt khi xuất khẩu gạo vào thị trường khó tính như Nhật Bản. Việc bị dừng hay hủy bỏ các đơn hàng nhập khẩu có thể kéo theo dừng lại toàn bộ chuỗi sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn.

Đối với vấn đề hỗ trợ đầu vào cho sản xuất lúa theo mô hình cánh đồng lớn, ngân hàng thương mại "ngại" cho DN vay để DN mua lúa và phân đạm cung cấp cho bà con nông dân vì người nông dân có thể phá hợp đồng để bán lúa với giá cao hơn cho thương lái hoặc người nông dân bị mất mùa thì ngân hàng cũng không có khả năng thu hồi tiền từ DN do không có tài sản thế chấp.

Bên cạnh đó, do Việt Nam chưa phát triển thị trường tương lai và thị trường kỳ hạn nên các công cụ tự bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp chưa được áp dụng nhằm giảm thiểu rủi ro, nhiều DN bảo hiểm nông nghiệp đều thua lỗ và điều này không có ai bảo đảm cho nông dân và DN khi bị mất mùa hay bị thiên tai.

Thí dụ như ngay trong vụ lúa Đông Xuân 2013-2014 vừa rồi, tình trạng DN phá vỡ hợp đồng với nông dân lại tiếp diễn, gây mất lòng tin của chính quyền cũng như người trồng lúa.

Đơn cử ở xã Tân Hồng, TX Hồng Ngự, Đồng Tháp, phải thu hoạch lúa trong tình thế bán đổ bán tháo. Lúa chín rực ngoài đồng, thất thoát nhiều, năng suất giảm. Trong khi đó thương lái ra sức ép giá dù giá lúa hiện nay đang rất thấp.

Ở đây có chuyện Công ty CP Docimexco không thực hiện hợp đồng mua lúa đã ký kết hồi đầu vụ. Ở đây, nguyên nhân chính dẫn đến việc phá vỡ hợp đồng là do giữa hai bên không thống nhất cách thức tính độ thuần của lúa và thỏa thuận về giá cả. Và việc DN và người nông dân không tìm được tiếng nói chung một lần nữa cho thấy sự cộng đồng trách nhiệm, chia sẻ giữa các bên còn yếu, chưa bền chặt.

Có một thực tế là lâu nay việc DN phá vỡ hợp đồng với nông dân và ngược lại nông dân không bán lúa cho DN theo hợp đồng vẫn còn diễn ra. Điều này cho thấy cung cách làm ăn thiếu sòng phẳng, chỉ thấy lợi trước mắt của cả đôi bên.

Được biết, trong lộ trình xây dựng cánh đồng mẫu lớn hay đề án tái cơ cấu nông nghiệp thì vấn nạn này hiện là một cản trở lớn. Thực tế một số DN ký hợp đồng liên kết, bao tiêu sản phẩm của nông dân chủ yếu là nhằm tận dụng nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước để tập trung xây dựng kho bãi, hệ thống say xát, sấy… của DN, trong khi vấn đề bao tiêu sản phẩm cho bà con nông dân hưởng giá tốt họ không thực sự quan tâm.

Nhiều ý kiến chuyên gia đã cho rằng mô hình cánh đồng lớn sẽ không lớn được nếu không cân bằng quyền lợi giữa DN và nông dân trong chuỗi sản xuất lúa gạo.

Thực tế những gì đang diễn ra ở nhiều địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long đang-chỉ-tăng-thêm-lợi-nhuận cho DN, còn thì lợi nhuận của người nông dân tăng-không-đáng-kể.

Có thể bạn quan tâm