Tàu không số và Điều giản dị

NDĐT - Ngày 6-10, tàu HQ 996, rời bến K20, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng đưa 148 đoàn viên thanh niên ưu tú trên cả nước cùng các cựu thủy thủ tàu không số tham gia “Hành trình theo dấu tích đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Trong 18 ngày của chuyến hành trình, Đoàn dừng chân tại các điểm - nơi mà Đoàn tàu Không số đã cập bến là: bến Sông Gianh (Quảng Bình), bến Sa Kỳ (Quảng Ngãi), bến Vũng Rô (Phú Yên), bến Lộc An (Bà Rịa Vũng Tàu), bến Thạnh Phong (Bến Tre), bến Vàm Lũng (Cà Mau) và kết thúc tại Lữ Đoàn 125 – Cảng Cát Lái (TP Hồ Chí Minh).

Chuyến đi của tôi bắt đầu bằng câu chuyện với cựu thủy thủ tàu Không số Nguyễn Minh Tân tại bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng. Nơi đây, vào đêm 11 tháng 10 năm 1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên mang tên “Phương Đông 1” chở 30 tấn vũ khí đã rời bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng lên đường đi Cà Mau. Từ chuyến đi thành công này, đường biển nối liền hậu phương lớn Miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam đã trở thành hiện thực, tạo tiền đề cho những chuyến vận chuyển thành công tiếp theo.

Tôi hỏi bác Tân, tại sao lại có tên gọi là “Đoàn tàu Không số”, bác Tân bảo, tàu Không số không phải vì không có số mà có rất nhiều số, sở dĩ như vậy là để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi Đoàn tàu không số được ra đời như thế.

Ngày ấy, để giữ bí mật cho từng chuyến đi, những chuyến tàu Không số thường chọn lúc thời tiết sóng to gió lớn để ra khơi. Những thủy thủ tàu, ở độ tuổi mười tám, đôi mươi luôn sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tàu, bảo vệ vũ khí và bảo vệ bí mật của con đường. Có một điều cho đến bây giờ bác Tân vẫn lấy làm ngạc nhiên là những thuỷ thủ của tàu Không số như bác, chưa một lần đi bằng đường biển vào Nam, trong tay không một tấm bản đồ, chưa từng biết một bến bãi nào trên suốt hành trình…vậy mà họ vẫn đưa được những con tàu cập bến an toàn. Bác Nguyễn Minh Tân nhớ lại, mặc dù là lính nhưng rất ít khi được mặc quân phục. Trên mỗi chuyến đi, để che mắt kẻ địch các bác thường mặc những chiếc áo “hoa hòe, chim cò” để giả làm lái buôn, người đánh cá…

Bến Sa Kỳ, Quảng Ngãi, sau hơn 40 năm tìm về, bác Lưu Quang Hào, cựu thủy thủ tàu Không số không khỏi bùi ngùi, bởi ở chính nơi này, tại bến tàu này, máu xương của những người đồng chí, đồng đội đã tan vào biển cả

Bác Hào nhớ lại, tháng 2-1968, tàu của bác chở 50 tấn vũ khí vào Quảng ngãi. Cách bến gần 10 km, địch bất ngờ đốt pháo sáng và bắn hỏa lực xối xả vào tàu. Sau hơn một giờ chiến đấu, bắn hạ được hai trực thăng và một tàu địch, các thủy thủ quyết định cho nổ tàu để vũ khí không rơi vào tay giặc. Khi anh em bơi được vào bờ, bà con nhân dân xã Phụng Hiệp, huyện Đức Phổ đã dìu thương binh xuống hầm bí mật và đưa đi điều trị tại Bệnh xá Đặng Thùy Trâm.

Kỷ niệm mà Bác Hào nhớ nhất là hơn một tháng điều trị tại đây, mỗi ngày đều được chị Đặng Thùy Trâm đọc cho nghe những trang Nhật ký đầy xúc động của chị. Sau này, ông và các chiến sĩ trên tàu Không số ngày ấy đã trở thành nhân vật trong cuốn Nhật ký nổi tiếng của Đặng Thùy Trâm. Chia tay Sa Kỳ, Quảng Ngãi, ông Hào ngẹn ngào trước những đồng đội đã ngã xuống: “Chia tay hôm nay biết khi nào gặp lại… đồng đội của tôi.”

Mỗi nơi chúng tôi đến, mỗi điểm chúng tôi dừng chân đều bắt gặp những câu chuyện, những con người bình dị sẽ mãi mãi là một phần không thể thiếu của con đường huyền thoại trên biển.

Trong câu chuyện của Anh hùng LLVTND, Thuyền trưởng tàu 41, Đoàn 125, Hồ Đắc Thạnh, chúng tôi lại bắt gặp một vẻ đẹp khác, một sự hy sinh thầm lặng đáng được vinh danh của những thủy thủ tàu Không số năm xưa. Có những chuyến đi không có nước ngọt, các thủy thủ trên tàu phải uống nước tiểu hay múc nước biển cho vào nồi đem phơi nắng để uống những giọt nước bốc hơi đọng lại trên vung, nhưng thứ nước ấy uống cũng chẳng dễ dàng gì. Vượt lên trên tất thảy những khó khăn, gian khổ ấy, những thủy thủ tàu Không số còn phải luôn chiến thắng chính bản thân mình. Một kỷ niệm làm ông Hồ Đắc Thạnh xúc động mãi, có lần tàu cập bến Vũng Rô, Phú Yên, có chiến sĩ tàu Không số nhìn thấy vợ con mình trong đoàn Văn công, nhưng vì yêu cầu bí mật nên mọi nỗi nhớ thương, mọi tình cảm chỉ trào dâng trong ánh mắt của người thủy thủ nhìn qua ô kính của con tàu…

Chia tay Quãng Ngãi, chúng tôi về gặp má Nguyễn Thị Mười ở thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, Bà Rịa Vũng Tàu. Trong những năm đánh Mỹ cứu nước, gia đình má Mười đã tự nguyện bán 10 cây vàng và vay mượn thêm tiền đóng một chiếc tàu. Người con trai của Má là Lê Hà cùng các thủy thủ khác đã đi con tàu ấy ra Bắc gặp Bác Hồ xin vũ khí cho chiến trường miền Nam. Hôm nay, gặp các bạn đoàn viên thanh niên má căn dặn: “Má chỉ mong các con luôn mạnh giỏi, hãy gắng sức xây dựng đất nước mình ngày thêm giàu mạnh để không một kẻ xâm lược nào dám vô đây một lần nữa.”

Bến Thạnh Phong, Bến Tre, bác Phạm Văn Phí, cựu thủy thủ tàu Không số, thành viên của Đoàn hành trình bồi hồi nhớ lại, ngày 29-8-1970, tàu V121 chở 60 tấn hàng cập bến. Đến đây được nghe các chiến sĩ kể, có một cô gái tên Năm Nu đã nấu cơm chờ trong ba tháng trời, nhưng hôm nay mới được nấu cơm cho các thủy thủ tàu Không số ăn. Bác Phí bảo, càng ăn cơm càng thấy ngon vì mình như cảm nhận được sự ấm áp từ tấm lòng của cả bà con miền Nam.

Khi chia tay, cô Năm Nu nhắn gửi: “Các anh ra miền Bắc cho em gửi lời thăm sức khỏe các bạn thanh niên.” Câu nói ấy, như lời nhắn gửi tới thanh niên miền Bắc cùng thanh niên và nhân dân miền Nam góp phần vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau 13 ngày hành trình theo dấu tích đường Hồ Chí Minh trên biển, ngày 19-10, Đoàn Hành trình đã đến đất mũi Cà Mau. Trong những năm kháng chống Mỹ cứu nước, Năm Căn là căn cứ hiểm trở nhất, nơi đây những con tàu Không số thường xuyên ra vào để đưa vũ khí vào miền Nam. Trong những năm tháng khốc liệt ấy, mỗi người dân nơi đây là một chiến sĩ của quân giải phóng, họ bảo vệ những con tàu, bảo vệ kho tàng cất giấu hàng ngàn tấn vũ khí. Mặc dù giặc Mỹ đã dùng nhiều thủ đoạn vây ráp, càn quét nhưng rốt cuộc chúng vẫn không lấy được một viên đạn nào, và cũng chẳng tìm ra được dấu vết của con tàu Không số mà chúng thường gọi là “những con tàu ma”.

Sau 17 ngày hành trình, trải qua hơn 1.500 hải lý, chiều 22-10, “Hành trình theo dấu tích đường Hồ Chí Minh trên biển – Học kỳ trên biển 2011” đã cập Cát Lái, TP Hồ Chí Minh, kết thúc Hành trình theo con đường huyền thoại.

Suốt chặng Hành trình, các thành viên trong đoàn đã đến với các địa danh lịch sử, được tận mắt chứng kiến những dấu tích còn lại của đường Hồ Chí Minh trên biển, được gặp lại các đồng chí, đồng bào đã che chở, đùm bọc các cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số năm xưa. Các đại biểu trong đoàn thấy mình như những chiến sĩ tàu Không số trở về trong vòng tay ôm ấp, bao bọc của đồng bào miền Nam.

Những con người làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển là những con người bình thường, họ không có phép màu nào khác ngoài tinh thần yêu nước nồng nàn, sự mưu trí, kiên gan và tinh thần quả cảm.

Những tên đất, tên người chúng tôi gặp đều giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử, về truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam, chuyến hành trình cũng là dịp để tuổi trẻ cả nước tôn vinh và tri ân những đóng góp, hy sinh to lớn của các cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số huyền thoại.

Anh Trần Thanh Lâm, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn xúc động chia sẻ: “Đây là hành trình nhằm khơi dậy lòng tự hào, cổ vũ động viên thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, giữ vững tinh thần độc lập, ý chí tự cường, tích cực đóng góp công sức, trí tuệ vào công cuộc khai thác tiềm năng, bảo vệ vững chắc, trọn vẹn chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.”

Trong buổi giao lưu với sinh viên trường đại học Tài Chính – Kế Toán Quảng Ngãi, khi các bạn sinh viên hỏi làm thế nào để các thủy thủ tàu Không số có thế vượt qua được mọi khó khăn, thử thách đưa được vũ khí vào các bến an toàn, bác Nguyễn Thanh Tâm, trả lời: “Việc các bác làm như tên bài hát “Điều giản dị” mà các bạn vừa nghe trước đó…”

Cả Hội trường vang dội tiếng vỗ tay khi nghe bác nói.

Những điều giản dị đó đã làm nên kỳ tích.

Và chính bởi xuất phát từ tấm lòng, từ tình yêu Tổ quốc và trách nhiệm công dân khi Tổ quốc lâm nguy đã biến những việc làm giản dị đó thành những hành động anh hùng.

Và chúng tôi, thế hệ trẻ ngày nay mỗi người sẽ nguyện làm được những “Điều giản dị” như thế.

Có thể bạn quan tâm