Tằng Loỏng - "nhà máy xanh - sạch - đẹp"

"Sau sông Ðà là Tằng Loỏng" - khẩu hiệu cũng như đường hướng chiến lược cho phát triển kinh tế của đất nước trong những năm tám mươi của thế kỷ trước đã cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà máy tuyển quặng A-pa-tít Tằng Loỏng như thế nào. Hơn thế nữa, ngay từ năm 1955, tức ngay sau khi hòa bình lập lại, trong khí thế cả miền bắc là một đại công trường, mỏ A-pa-tít Lào Cai đã nhận được sự quan tâm, đầu tư tích cực của lãnh đạo Ðảng, Chính phủ, và còn nhận được sự hợp tác, giúp đỡ từ nước Liên Xô anh em...

Và hơn 40 năm sau, tôi đã được chứng kiến cả khu vực nhà máy rộng mấy chục ha như ngập trong mầu xanh. Từ trụ sở chính đến các phân xưởng sản xuất đều được xây dựng, bố trí những bể phun, vườn hoa, cây cảnh. Mầu xanh làm dịu đi cái nóng như nung như đốt. Mầu xanh là minh chứng môi trường xanh - sạch - đẹp, mà cơ sở sản xuất nào cũng phải phấn đấu. Trong sản xuất công nghiệp, điều nan giải là việc xử lý ô nhiễm môi trường, thì đối với Nhà máy tuyển Tằng Loỏng còn hơn thế. Ngay từ lúc còn trong bản vẽ cho đến khi thi công nhà máy chưa đề cập đầy đủ các giải pháp về môi trường. Khi đi vào sản xuất thử, những bất cập về chất thải, nước thải đã làm cho từ các nhà quản lý đến những người công nhân phải đau đầu. Công ty, nhà máy phải bỏ cả tỷ đồng vào đầu tư thiết bị, lắp đặt dây chuyền xử lý chất thải rắn, xử lý nước thải, đầu tư xe phun nước, chống bụi, trồng cây bên đường đi lối lại... Từ  nỗ lực xử lý ô nhiễm môi trường mà cán bộ, công nhân viên nhà máy yên tâm làm việc, nhân dân quanh khu vực không còn khốn khổ vì chất thải. Từ nỗ lực xử lý môi trường mà nhà máy được rút ra khỏi diện phải quan tâm theo dõi đặc biệt về tác động môi trường theo Nghị định 64 của Chính phủ...

"Tằng Loỏng" phiên âm từ hai tiếng "Tăng Loòng", tiếng Giáy có nghĩa là "đèn sáng". Từ xa xưa, người dân nơi đây đã phát hiện ra những tảng đá đêm đêm phát sáng như những cây đèn. Dẫu chưa biết những tảng đá phát sáng phát lộ gì song họ đã đặt ra hai tiếng Tăng Loòng để ghi dấu, để nhắc nhở con cháu mai sau về tiềm năng, bí ẩn của thiên nhiên. Cho đến đầu thế kỷ hai mươi do phát hiện tình cờ và trách nhiệm của một nông dân người Tày là Trần Văn Nỏ cùng sự thăm dò, nghiên cứu của các kỹ sư người Pháp, người ta mới biết những hòn đá phát sáng nằm suốt dọc đất Cam Ðường chính là phát lộ của một vùng quặng A-pa-tít khổng lồ. Rồi sau ngày hòa bình lập lại trên nửa đất nước, từ quan hệ hợp tác, giúp đỡ quý báu của nước bạn, chúng ta đã quy hoạch tổng thể khu mỏ A-pa-tít Lào Cai, trong đó có nhà máy tuyển khoáng, đã đầu tư trang thiết bị, hướng dẫn đào tạo cán bộ quản lý kỹ thuật, quản lý kinh tế, quản lý khai thác, vận hành các thiết bị... Ðến năm 1958, đã lấy mẫu quặng 3 ở các khu mỏ để xác định các thông số công nghệ, lập thiết kế và luận chứng kinh tế kỹ thuật cho Nhà máy Tuyển nổi quặng 3 A-pa-tít Lào Cai. Song, từ ý tưởng tới hiện thực là cả một thời gian dài. Cái gian nan không chỉ từ khó khăn, thiếu vốn, thiếu hiểu biết khi bắt đầu xây dựng một khu công nghiệp hiện đại mà còn ở cả chuyện khách quan. Dù đã có những bước đi đầy thận trọng, song nhà máy cũng từng vấp phải những hoàn cảnh bất khả kháng.

Vào thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, trong lúc nền kinh tế thời hậu chiến đầy khó khăn nhưng đất nước vẫn dành cho Tằng Loỏng cả nghìn tỷ đồng để xây dựng. Với nỗ lực và đầu tư của hai nước Việt - Xô, chỉ trong mấy năm mà  hơn 200 ha đồi núi, thung lũng của vùng đất Tằng Loỏng hoang sơ đã được quy hoạch tổng thể. Theo thiết kế nhà máy năm 1981, rồi được chỉnh sửa để thành thiết kế năm 1986, hơn mười nghìn mét khối đất đá được san gạt, hơn 128 nghìn mét khối bê-tông đã thành móng công trình, móng đặt các thiết bị, gần 40 km đường bê-tông, 40 km đường sắt dẫn đến nhà máy, các dãy nhà hai tầng, ba tầng của các khu A, B, C, Ban chuẩn bị sản xuất, Ban quản lý công trình với đầy đủ sân chơi, điện, nước, căn hộ khép kín  được xây dựng. Ðặc biệt, nhà máy đã  lắp đặt được 11.943 tấn kết cấu thép, 65.172 m2 bao che, 4.562 tấn thiết bị công nghệ... Trong những ngày tháng sôi động ấy, bất kỳ ai quan tâm đến mỏ, đến A-pa-tít đi qua Tằng Loỏng cũng đều náo nức tự hào. Với bạn, các thiết bị, vật tư cung ứng cho ta đầy đủ, kịp thời, các chuyên gia cần mẫn, đêm ngày trực tiếp tham gia xây dựng, lắp đặt máy móc, nhiệt tình truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm. Với ta, mấy trăm tỷ đồng đầu tư cho Tằng Loỏng, hàng vạn công nhân của hàng trăm đơn vị thi công hừng hực trong khí thế "làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm". Qua làm, qua học bước đầu ta đã có điều kiện chuẩn bị nhân lực, đào tạo cán bộ, thợ vận hành, thiết lập mô hình tổ chức, lập phương án chạy thử, phương án sản xuất. Một thành phố ngổn ngang sắt thép, máy móc kéo dài cả chục cây số. Một thành phố đêm ngày ầm vang tiếng máy. Một thành phố hứa hẹn đủ đầy ngời ngời trên từng khuôn mặt. Rồi một ngày, vì lý do bất khả kháng, các chuyên gia về nước, các vật tư thiết bị xây dựng nhà máy bị ngừng cung cấp. Sự tê liệt của hoạt động xây dựng nhà máy kéo theo biết bao sự tê liệt khác. Nhà máy mới lắp đặt được 40% thiết bị, các thiết bị lại cồng kềnh, lạc hậu, bên A không có vốn, không có vật tư, thiết bị để cung ứng, bên B thi công rã rời mỗi đơn vị một kiểu, nhà máy rơi vào tình cảnh "làm cũng dở, bỏ không xong". Trong thời điểm gian khó đó, từ việc nhận rõ được tầm quan trọng của nhà máy đối với quá trình phát triển của vùng mỏ A-pa-tít, với ngành sản xuất phân bón trong nước và chương trình phát triển nông nghiệp nước nhà, theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công nghiệp (lúc đó) đã ký quyết định tiếp tục đầu tư hoàn thiện, thành lập Ban chủ nhiệm đề án mở rộng mỏ A-pa-tít và xây dựng Nhà máy tuyển Tằng Loỏng trực thuộc Bộ. Phát huy nội lực, trong giai đoạn vô cùng khó khăn là một chủ trương sáng suốt, song cũng chỉ là từng bước đi dè dặt. Ðã có ba bộ, sáu viện nghiên cứu cùng tham gia vào việc tiếp tục xây dựng nhà máy. Nhiều nhà máy cơ khí trong nước đã được giao nhiệm vụ chế tạo, lắp đặt các thiết bị còn thiếu; hơn ba nghìn người thuộc năm mươi cơ quan bên B và sáu trăm cán bộ, công nhân làm việc cả ngày lẫn đêm. Bộ Công nghiệp một tháng họp giao ban tại nhà máy một lần. Năm 1993, Nhà nước đầu tư 65 tỷ đồng, năm 1994 là 93 tỷ đồng,... chỉ cần một số thông tin trên cũng đủ thấy đất nước quyết tâm tập trung xây dựng Nhà máy tuyển khoáng Tằng Loỏng như thế nào.

Ðêm Nô-en năm 1993, nhà máy vận hành thử phân xưởng chính. Chưa đầy 24 giờ hoạt động, cỗ máy nghiền khổng lồ với vòng bi nặng 45 tấn bị khựng lại, khiến cho bao nhiêu háo hức, chờ đợi khựng lại theo. Công trình "giật đầu cá, vá đầu tôm" còn phải trả thêm một giá đắt nữa, thuốc tuyển TXK theo thiết kế không có, nhà máy phải lần mò thử nghiệm mãi mới tìm được thuốc tuyển K100, K200, K300 của Phần Lan thay thế. Còn nữa, nhà máy hoạt động mỗi giờ ngốn hết mười triệu đồng tiền điện (theo thời giá 1993), rồi hai đường ống dài ngót mười cây số từ Tà Thàng về vẫn không nạp đủ nước cho bốn cái vạc khổng lồ để khuấy quặng thành bột, rồi hệ thống vận chuyển, hệ thống lọc bụi, bảo vệ môi trường,... Công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ và chắp vá không chỉ gây lãng phí, tốn công, tốn của mà còn là gánh nặng cho những người đang xây dựng.

Rồi các thiếu thốn, khiếm khuyết cũng dần dần được khắc phục. Sau quá trình chạy thử cho kết quả khá khả quan, ngày 26-9-1994, Bộ trưởng Công nghiệp đã ký quyết định thành lập nhà máy. Thấm thoắt thoi đưa, mới đó mà đã mười lăm năm. Mười lăm năm, nhà máy vừa hoàn thiện hệ thống quản lý, vận hành, bước vào thực hiện giai đoạn 2, giai đoạn 3, vừa đi vào sản xuất. Từ chạy một dây chuyền không hoàn chỉnh đến hoàn thiện hai dây chuyền, đưa công suất từ 300.000 tấn lên 600.000 tấn, rồi 900.000 tấn, đạt 100% công suất thiết kế, xây dựng và đưa Nhà máy tuyển A-pa-tít Cam Ðường với công suất 120.000 tấn vào sản xuất là cả một nỗ lực to lớn.

Trong chặng đường gian nan, nỗ lực không mệt mỏi, dưới sự lãnh đạo của Ban Giám đốc Công ty A-pa-tít Việt Nam, cán bộ, công nhân viên nhà máy không chỉ từng bước làm chủ được công nghệ, mà còn bắt kịp với công cuộc đổi mới của đất nước, sản xuất ra ngày càng nhiều quặng tinh tuyển phục vụ cho các nhà máy phân bón và xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Ngày 26-9 mới đây, nhà máy kỷ niệm 15 năm ngày thành lập khi luồng gió đổi mới từ cơ chế khoán đến mua sản phẩm cuối cùng làm thay đổi toàn bộ diện mạo nhà máy. Cảnh quan xanh - sạch - đẹp đã làm nên diện mạo mới của cả một khu vực sản xuất khổng lồ. Công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất và giữ gìn vệ sinh môi trường đã trở thành điều tâm huyết của mọi người. Bộ máy quản lý được sắp xếp hợp lý, tiết kiệm, với nhiều sáng kiến cải tiến, hợp lý hóa sản xuất, như tiêu hao điện năng từ 234 kW xuống còn 135 kW/một tấn sản phẩm, góp phần làm cho giá thành giảm, từng bước có lãi, thu nhập bình quân từ 700.000 đồng/người/tháng vào năm 1994 lên 5,5 triệu đồng vào năm 2008. Năm 2008, nhà máy đã xuất khẩu 150.000 tấn quặng tuyển, thu về cho công ty 15 triệu USD... Ngày nào cũng thế, từ nơi đây, những sản phẩm quặng các loại được tinh tuyển, những "ngọn đèn" không chỉ thắp sáng cho một vùng đất mà còn rong ruổi theo những đoàn tàu, xe vận chuyển, theo chân các bạn hàng đi thắp sáng khắp bốn phương trời, góp phần làm cho đất nước phồn vinh.

Có thể bạn quan tâm