1. Chế độ trường công miễn phí là một thành tựu lớn của lịch sử loài người, bắt đầu có ở phương Đông từ chế độ phong kiến và ở phương Tây từ thế kỷ 19, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Miễn phí không những là tất yếu ở các bậc học phổ cập hay bắt buộc mà còn được áp dụng ở các bậc học cao hơn. Bên cạnh miễn phí (hay gần như miễn phí), các nền giáo dục nói trên còn thực hiện cung cấp học bổng và các phương tiện học tập (sách, vở...) cho những học sinh nghèo. Chế độ xã hội chủ nghĩa coi giáo dục miễn phí là một yêu cầu cơ bản trong cương lĩnh chính trị của mình: vì thế tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện miễn phí giáo dục, đào tạo.
Hoa Kỳ tuy không có chế độ giáo dục hoàn toàn miễn phí như ở các nước châu Âu nhưng học phí ở các trường công rất thấp (thí dụ trung bình học phí ở trường đại học công chỉ bằng 1/5 học phí ở các trường tư, theo con số công bố đầu năm 2005), đồng thời lại thực hiện một chế độ học bổng, trợ cấp, cho vay rất rộng rãi đối với học sinh, sinh viên.
Cuối thế kỷ 20, sau khi Liên Xô sụp đổ, các nước châu Âu (vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu là vì bị ảnh hưởng của "chủ nghĩa tự do mới", một thứ chủ nghĩa tư bản cực đoan hiện đại muốn dùng thị trường thay thế cho vai trò quản lý của nhà nước và muốn dùng thị trường chi phối không những lĩnh vực kinh tế mà tất cả các lĩnh vực khác) đặt vấn đề xem xét thu học phí ở trường công bậc đại học và cho mở rộng trường tư như ở Hoa Kỳ đã và đang làm từ lâu. Tuy vậy, cho tới nay, trên thế giới không có nước nào thu học phí ở trường công cao hơn 50% chi phí đào tạo (thường thì thấp hơn nhiều), lại càng không có nước nào đặt vấn đề trường công thu học phí đủ bù chi phí đào tạo.
2. Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng tháng 8-1945 tới 1986, chúng ta đã xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí ở tất cả các cấp học (và vì vậy không có trường tư); không những thế, Nhà nước ta còn cấp học bổng cho tất cả học sinh, sinh viên các trường nghề, trường chuyên nghiệp, trường đại học.
Sau năm 1986, trước yêu cầu đổi mới, chúng ta đã bỏ chế độ miễn phí ở trường công và cho mở trường tư được thu học phí có lợi nhuận (trước đó, từ 1960 chúng ta đã có loại trường dân lập thu học phí gần đủ bù chi phí đào tạo không tính lợi nhuận). Tới nay, ước lượng học phí ở các trường đại học công ở ta bù được từ 30% đến 40% chi phí đào tạo, tính trung bình cho tất cả các trường đại học công có chi phí đào tạo khác nhau.
3. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu tăng học phí ở các trường công. Lý do định tăng học phí là vì khả năng ngân sách không đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục; cũng còn có lý do nữa là để thực hiện công bằng trong cung cấp dịch vụ giáo dục vì học sinh, sinh viên con nhà giàu sẽ phải đóng học phí cao, còn học sinh, sinh viên con nhà nghèo sẽ được giảm hay miễn học phí và còn được cấp học bổng.
4. Vì vấn đề học phí ở trường công là một vấn đề lớn của đường lối giáo dục (như tôi đã trình bày sơ qua ở điểm 1 trên đây), nên với nhận thức "thất phu hữu trách", tôi xin đề đạt một số ý kiến sau đây mong được các cơ quan có trách nhiệm tham khảo khi xây dựng và thông qua đề án "nâng học phí ở các trường công của ta”.
a) Không nên đặt vấn đề nâng học phí ở trường công đến mức đủ bù cho học phí đào tạo vì hiện nay trên thế giới không ở đâu làm như thế cả. Làm như thế còn là đưa trường công gần thành trường tư, cũng là một việc trên thế giới chưa ai làm, tuy những nhà lý luận theo "chủ nghĩa tự do mới" đang hô hào thúc ép phải làm. Nước ta không nên đi tiên phong trong việc thực hiện "chủ nghĩa tự do mới".
b) Cần nghiên cứu, thông qua, ban hành và thực hiện đồng thời chính sách nâng học phí với chính sách miễn, giảm học phí và cấp học bổng. Vì nếu thực hiện chính sách nâng học phí trước rồi để một thời gian mới có chính sách miễn, giảm học phí và chính sách học bổng thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho học sinh, sinh viên con các gia đình nghèo hoặc gia đình chỉ đủ ăn. Vả lại phải có cả hai chính sách về nâng học phí và về miễn giảm học phí, cấp học bổng thì mới so sánh và thấy rõ ý nghĩa, hiệu quả, ảnh hưởng của các chính sách đó về mặt kinh tế và công bằng xã hội.
c) Trong xây dựng các chính sách nói trên, cần nghiên cứu cơ cấu thành phần xã hội (xét về mặt giàu, nghèo) của học sinh, sinh viên chúng ta. Đó là cơ sở phải có để xem xét vấn đề công bằng xã hội. Có phải hiện nay, theo một số ý kiến, trong các trường đại học công, sinh viên con nhà giàu nhiều gấp 20 lần số sinh viên con nhà nghèo? (trong khi đó, cũng theo ý kiến trên, số gia đình giàu trong xã hội ta chỉ nhiều gấp 8 lần số gia đình nghèo?): Từ đó, theo ý kiến trên, cần nâng học phí để số 20% là sinh viên giàu đóng học phí cao, còn 1% là sinh viên nghèo sẽ được miễn học phí; như thế sẽ công bằng hơn? Còn lại 79% là sinh viên con gia đình bình thường sẽ được giảm học phí v.v và v.v. Những con số nói trên chưa có cơ sở gì đáng tin cậy nhưng qua đó thấy rõ việc điều tra tình hình kinh tế các gia đình của sinh viên là rất cần để có một chính sách học phí và học bổng đúng đắn. Cần nói thêm là sự điều tra đó sẽ cho chúng ta biết từ 1986 tới nay, việc thực hiện công bằng xã hội trong mở rộng quy mô giáo dục đại học nước ta là đúng hướng hay chệch hướng.
d) Trong việc nghiên cứu chính sách học phí và học bổng, còn cần nghiên cứu chi phí giáo dục ở các loại trường công nước ta hiện nay như thế nào; còn thiếu bao nhiêu, ở những loại chi phí gì và ở những loại trường nào, chi phí như vậy có kinh tế, có lãng phí ở đâu không? Từ đó, sẽ xem xét nên nâng học phí đồng loạt như nhau ở các loại trường đại học công hay cần phân biệt loại nâng nhiều, loại nâng ít, loại không nâng? (chi phí đào tạo ở các trường kỹ thuật cao hơn nhiều các trường kinh tế, xã hội...).
e) Cuối cùng, cần tính toán với chính sách học phí và học bổng như vậy sẽ được lợi về kinh tế (tăng hay bớt cho ngân sách) như thế nào và ảnh hưởng về mặt công bằng xã hội như thế nào?
g) Vì đây là những vấn đề rất lớn về đường lối giáo dục, có ý nghĩa lớn về mặt chính trị, kinh tế xã hội, nên tôi đề nghị các chính sách ấy, cùng với cơ sở và ảnh hưởng của chúng cần được công bố công khai cho nhân dân biết để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đường lối "xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", định hướng xã hội chủ nghĩa.