Kỷ niệm 123 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm tác phẩm nhật ký trong tù

Sự bất hủ của Nhật ký trong tù

NDO -

70 năm Nhật ký trong tù (NKTT), đọc lại thơ Bác Hồ, quả được thấy "xích xiềng không khóa nổi lời ca", thơ Người trùm lên tâm hồn ta một bóng cây đại thụ và hiển hiện đường bay của một cánh chim bằng tự do.

 Triển lãm thư pháp Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hàn Quốc năm 2010 do 25 nhà thư pháp hàng đầu của Hàn Quốc thực hiện.
 Triển lãm thư pháp Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hàn Quốc năm 2010 do 25 nhà thư pháp hàng đầu của Hàn Quốc thực hiện.

Bác Hồ viết Nhật ký trong tù từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 trong thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ trong các nhà ngục của chúng. Nhưng trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, một tiếng thơ tự do đã vút bay lên.

Một tác phẩm văn học lớn, trước hết là tác phẩm phản ánh được những nét bản chất nhất của hiện thực xã hội, thể hiện được khát vọng của cả một dân tộc, một thời đại. Hiện thực lớn nhất của nước ta lúc đó là tinh thần cách mạng sục sôi; khát vọng thiết tha nhất của dân tộc ta lúc đó: Ðộc lập. NKTT đặc biệt đã thể hiện được trái tim yêu nước bỏng cháy, tinh thần dấn thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của chính tác giả, lãnh tụ của công cuộc giải phóng đó. "Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài", bản thân Bác chịu biết bao đau khổ cay cực, nhiều lúc Bác tự khóc thương mình và khiến người đọc cũng rơi lệ; nhưng đau xót nhất của Bác vẫn là cảnh lầm than của dân tộc: Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh/ Nội thương đất Việt cảnh lầm than (Ốm nặng). Ưu tâm nhiều nhất vẫn là công việc cách mạng: Một canh, hai canh lại ba canh/ Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành/ Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt/ Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

Lồng lộng trong NKTT là hình ảnh của một con người tự do, một khát vọng tự do. Tự do, đó là một giá trị đầu tiên và căn bản nhất của đời sống con người. Phải nói rằng, không ai hiểu và phát biểu về tự do một cách nhất quán và sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước" ngày 17-7-1966, Người trịnh trọng tuyên bố: "...Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Ðến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!". "Không có gì quý hơn Ðộc lập, Tự do"! Lời nói đã thành chân lý, thành ý chí và sức mạnh của cả dân tộc trong những ngày đánh Mỹ và cho đến muôn sau. Do hoạt động cách mạng, Người đã hai lần bị cầm tù, hơn một lần bị truy bức, Người hiểu sâu sắc rằng Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi bằng mất tự do (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi); Một hữu tự do chân thống khổ (Mất tự do, thật là một điều thống khổ - Hạn chế). Có thể giam cầm được thân thể nhưng không giam được tư tưởng, Hồ Chí Minh vẫn luôn thấy mình là người tự do: Tự do tiên khách trên trời, Biết đâu trong ngục có người khách tiên (Quá trưa). Bị giải đi sớm, trong cảnh bình minh, Bác nghĩ đến ngày thắng lợi cách mạng đang đến gần: Phương Ðông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn quét sạch không/ Hơi ấm bao la trùm vũ trụ/ Người đi thi hứng bỗng thêm nồng. Chính tinh thần lạc quan, ung dung tự tại thể hiện qua những bài thơ này, đã tạo cảm hứng cho Tố Hữu viết: Lại thương nỗi đọa đày thân Bác/ Mười bốn trăng tê tái gông cùm/ Ôi chân yếu, mắt mờ,  tóc bạc/ Mà thơ bay cánh hạc ung dung. Nhắc đến

Hồ Chí Minh là nhắc đến tự do, vì thế, Tạp chí Time của Mỹ, số tháng 10-2010 đã xếp Người là một trong mười chiến sĩ đấu tranh cho tự do nổi tiếng nhất trong mọi thời đại. Và như vậy, Người cũng là biểu tượng cho tình yêu tự do và công lý của dân tộc Việt Nam!

Một tác phẩm văn học lớn còn là một tác phẩm thể hiện tình yêu thương con người. Nếu "chất thép" - Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao là một giá trị cho sự tu dưỡng ý chí, thì tình yêu thương con người mênh mông của Bác đối với mọi số phận - từ đôi vợ chồng có cảnh ngộ người trong song sắt, người ngoài song sắt mà cách nhau trời vực đến em bé nửa tuổi trong lao; từ cảnh nghèo đói của nhân dân vùng Long An - Ðồng Chính đến một người tù cờ bạc bị chết... Nếu sự tố cáo chế độ hà khắc trong tù và sự bất công trong cuộc sống là một giá trị khiến người ta bất bình, vùng lên để đấu tranh; thì sự ghi nhận những vẻ đẹp con người, vẻ đẹp của những giá trị cuộc sống khiến người ta tin tưởng, hy vọng là một giá trị khác không kém phần quan trọng. Nhiều mảng hiện thực trong NKTT là những bức tranh tuyệt sắc được vẽ nên không chỉ bằng sự tài hoa mà còn bằng cả một tâm hồn yêu sống mãnh liệt: Tới đây khi lúa còn con gái/ Gặt hái hôm nay quá nửa rồi/ Khắp chốn nông dân cười hớn hở/ Ðồng quê vang dậy tiếng ca vui (Cảnh đồng nội). NKTT không hề là tiếng nói một chiều. Giá trị nhân bản đó làm nên tính vĩnh hằng cho tác phẩm.

Nghệ thuật thơ trong NKTT là một nghệ thuật trác việt. Trong các nhà thơ Việt Nam của thế kỷ 20, không ai làm thơ chữ Hán hay và điêu luyện như Hồ Chí Minh. Chỉ những bậc túc nho mới có thể làm thơ tập cổ, tức là dựa vào một bài thơ cổ điển để phát triển những ý mới. Bài Thanh minh trong NKTT dựa theo bài Thanh minh của Ðỗ Mục, một nhà tứ tuyệt nổi tiếng thời Vãn Ðường. Nhưng nếu như Ðỗ Mục nói chuyện rượu, thì Bác nói chuyện tự do. Câu kết thật là sáng tạo Tá vấn tự do hà xứ hữu/ Vệ binh dao chỉ biện công môn (Tự do thử hỏi đâu là/ Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường). Câu thơ đa nghĩa, sâu cay và trào lộng biết bao! Chỉ có bọn ngồi trong công đường mới có tự do! Chính vì bọn ngồi trong công đường mà không ai có tự do!

Ngoài một số bài thơ mang tầm chiến lược của một cuộc cách mạng hay một chiến dịch quân sự thiết thực cho công việc giải phóng dân tộc lúc bấy giờ như Học đánh cờ - và chính bài thơ này cũng mang chân lý phổ quát - thì  trong NKTT còn có vô số những câu thơ là sự tổng kết những quy luật của cuộc sống. Từ những tổng kết đó, có thể đem lại tinh thần lạc quan, sự rèn luyện, tu dưỡng tính cách như trong bài Tự khuyên mình: Ví không có cảnh đông tàn/ Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân/ Nghĩ mình trong bước gian truân/ Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng; hay bài Giã gạo: Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/ Sống ở trên đời người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành công. Sự vĩ đại của NKTT còn là một cái nhìn phát hiện ra sự vĩ đại trong những cái tầm thường nhất, từ cây gậy, cột cây số đến tiếng gà gáy... Viết về một cây gậy, cũng mênh mông tình Bác: Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường/ Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương/ Giận kẻ gian kia gây cách biệt/ Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương. Tình cảm lớn ấy làm nên tầm vóc, làm nên sự khác biệt Hồ Chí Minh.

NKTT chỉ có 133 bài thơ ngắn mà chứa đựng rất nhiều nội dung, nhiều đề tài; trong đó có đề tài phụ nữ và trẻ em rất đáng chú ý; có rất nhiều phong cách: phong cách trữ tình hòa lệ thành thơ khiến người đọc có thể cảm thương nhỏ lệ hoặc hưng phấn trước những vẻ đẹp bao la, nồng ấm, có phong cách trào lộng, nhiều bài có thể xếp vào hạng nhất trong dòng văn học này: Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội/ Trong tù đánh bạc được công khai/ Bị tù con bạc ăn năn mãi/ Sao trước không vô quách chốn này. Bài Cấm hút thuốc cũng vậy Nó thì kéo tẩu tha hồ hút/ Anh hút, còng đây, ghé tay vào! Thì ra mọi thứ đều là tương đối, có thể đánh tráo được; mà tương đối nhất, dễ đánh tráo nhất lại là luật pháp!

Ðiều cuối cùng tôi muốn nói là khi đọc, khi học NKTT càng bám sát được nguyên tác thì càng thấy được cái hay, cái tinh túy, cái nghệ thuật thơ già dặn của Bác. Chỉ duy nhất có một bài thơ do chính Bác dịch, đó là bài Mới ra tù học leo núi. Cả nguyên tác lẫn bản dịch, đều thật là hay.

Ðã 70 năm, qua nhiều lần sửa chữa, hiệu đính nhưng có nhiều bài vẫn cần thiết được dịch lại. Ðây là điều mà GS Lê Trí Viễn đã từng đề xuất. Chẳng hạn, câu Ngục trung hốt thính tư hương khúc (Trong tù chợt nghe tiếng sáo thổi điệu Nhớ quê) trong bài Nạn hữu xuy địch  mà dịch là Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu như của Nam Trân thì chữ "vi vu" vui quá, vô duyên quá, không nhập vào chữ "thê lương", chữ "sầu" ở câu ngay sau đó. Ở bản dịch của Nguyễn Huệ Chi, nếu tạm chấp nhận được câu đầu thì câu thứ 4 Lên lầu ai đó, chốn phòng khuê thiếu chất thơ quá, không sánh được nửa phần cái hay của nghệ thuật, cái nặng của tình trong nguyên tác: Thiên lý quan hà vô hạn cảm/ Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu. Ở bài Lộ thượng (Trên đường) Nam Trân dịch khá hay nhưng Tự do lãm thưởng mà dịch "vui say" thì vẫn có người có ý kiến không đồng tình. Tuy nhiên, theo ý riêng tôi, chữ "vui say", ẩn đi chữ ngắm cảnh, nói được lòng yêu thiên nhiên của Bác, cũng khá đắc địa; các bản dịch mới không bằng được! Chữ "hoan hỉ" trong bài "Cảnh báo" mà cả Nam Trân và Huệ Chi đều dịch là "khoái" thì chưa ổn. Cả "hoan hỉ" và "khoái" đều là từ Hán Việt, có nghĩa khác nhau rõ ràng. Ðến bài "Chiết tự" thì cả bản dịch nghĩa lẫn bản dịch thơ thì mười phân may chỉ được vài phân!

Quách Mạt Nhược (1892-1978), Viện trưởng Viện Khoa học xã hội đầu tiên của CHND Trung Hoa, một học giả nổi tiếng thế giới, đánh giá về NKTT không đơn thuần là một tập thơ mà là một bộ sử thi.

Nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) khi đọc NKTT cho rằng: "Không những chúng ta được thấy lại bộ mặt tàn khốc đen tối của nhà tù Trung Quốc mà chúng ta còn được gặp một tâm hồn vĩ đại của một nhà ái quốc, một tâm hồn vĩ đại của bậc đại trí, đại nhân, đại dũng (Tạp chí Văn nghệ, số 5-1960).

Trong Lời tựa cho bản in NKTT bằng tiếng Nga, Pa-ven An-tô-côn-xki viết: "Dấu hiệu của sự khỏe khoắn về mặt tinh thần và của sức mạnh về mặt đạo đức của tác giả là chất hài hước".

GS Huỳnh Lý nhận thấy thơ Bác trong như ánh sáng và cũng như ánh sáng, không chỉ có một mầu trắng; như cây đàn bầu chỉ một dây đồng mà rung lên cả thế giới âm thanh.

70 năm NKTT, đọc lại thơ Bác, quả được thấy "xích xiềng không khóa nổi lời ca", thơ Bác trùm lên tâm hồn ta một bóng cây đại thụ và hiển hiện đường bay của một cánh chim bằng tự do như nửa thế kỷ trước nhà thơ Hoàng Trung Thông từng cảm nhận. Ðó chính là sự bất hủ của một tác phẩm văn chương lớn.