Đại biểu Phạm Ngọc Phương (Quảng Bình) ý kiến, quyền im lặng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) chính là người bị bắt, tạm giam, bị can, bị cáo không trình bày lời khai khi chưa có luật sư của họ, khi họ thấy cần có luật sư bào chữa bảo vệ cho chính mình. Trong khoảng thời gian chưa có luật sư không thể buộc họ phải trình bày lời khai. Việc trình bày lời khai hay không là quyền của họ. Nghĩa vụ của cơ quan điều tra khi thực hiện lời khai phải thông báo đầy đủ cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo biết có quyền im lặng theo quy định của Bộ Luật Dân sự.
Cho rằng quyền im lặng là quyền không nói gì để chờ luật sư đến bào chữa, theo đại biểu Lương Văn Thành (TP Hải Phòng), cách hiểu như vậy là chưa đầy đủ và không phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam vì số lượng luật sư không đủ để có mặt khi có nghi can bị tạm giữ như hiện nay.
Đại biểu Lương Văn Thành (TP Hải Phòng) ý kiến, quyền im lặng được hiểu nghi can bị bắt giữ không bị ép buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình, đây là cách tiếp cận từ yếu tố bên ngoài, đó là quyền của các cơ quan tố tụng không được ép buộc bị can đưa ra chứng cứ, cách tiếp cận này chưa đúng với bản chất của quyền im lặng.
Theo đại biểu Thành, “thực chất quyền im lặng đó là quyền tự thân bên trong của nghi can không có nghĩa vụ phải đưa ra những lời khai hoặc chứng cứ chống lại chính mình, những lời khai gây bất lợi cho chính mình”.
Trong khi đó, trách nhiệm chứng minh theo luật định là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, nghi can có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh. Đại biểu Thành đồng ý với dự thảo quy định "người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội".
Đây là điểm rất mới, cụ thể hóa nguyên tắc suy đoán vô tội trong bộ luật, đây thực chất là quyền của nghi can được tự bảo vệ đối với các hoạt động tố tụng hình sự chống lại mình. Quy định như dự thảo thực chất là bảo vệ nghi can và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tố tụng nhằm khắc phục oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm, đại biểu Thành ý kiến.
Viện dẫn Điểm 4, Điều 31 của Hiến pháp năm 2013, quyền người bị bắt tạm giam khởi tố điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho chính mình, dẫn cụ thể từng điều, theo đại biểu Phương, "ở một góc độ nào đó khi áp dụng quyền im lặng cơ quan điều tra sẽ phải nâng cao nghiệp vụ của mình bằng cách tăng cường kỹ thuật khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai từ nhân chứng, tìm kiếm các thông tin khác về nghi phạm để làm sao cáo buộc của cơ quan tố tụng chắc chắn hơn".
Và theo đại biểu Phương, đây là điều sẽ làm cho hoạt động của cơ quan tố tụng điều tra tích cực hơn, không phải kéo dài thời gian giải quyết vụ án, giảm thiểu việc phản cung tại phiên tòa hay trả hồ sơ điều tra lại.
Rõ ràng trong thực tiễn, quyền im lặng có thể gây ra những cản trở nhất định cho cơ quan điều tra khi vụ án có nhiều đồng phạm, việc im lặng của nghi phạm có thể sẽ cản trở quá trình điều tra nhưng không vì thế mà không đưa quyền im lặng vào luật. Vì lẽ đó, đại biểu Phương đề nghị cần sửa đổi “triệt để” Điều 40, 41, 42, 43 theo hướng người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền im lặng không đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận tội.
Cũng nhất trí về quyền khai báo của người bị bắt, bị can, người bị khởi tố được quy định tại Điều 39, 40, 41, 42, 43 – đại biểu Vũ Xuân Trường (Nam Định) nhận định, quyền tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình, buộc phải nhận là mình có tội. Đó là thể hiện đầy đủ quyền có thể khai báo hoặc không khai báo và không buộc phải đưa ra những lời khai tự nhận tội thuộc về mình.
Tuy vậy, đại biểu Trường vẫn đề nghị Ban soạn thảo trong quá trình thực hiện cần khuyến khích việc nếu bị can, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải thì cũng được xem xét để coi như một tình tiết giảm nhẹ cho họ. Việc làm như vậy vừa tránh được ép cung, nhục hình, mớm cung, đặc biệt tránh được việc hiểu về quyền im lặng mà một số quan điểm trong thảo luận trước đây cũng đưa ra dễ bị lạm dụng. Ở nước ta còn rất nhiều cách hiểu khác nhau, vì đây là những vấn đề chưa được khảo nghiệm trên thực tế thực thi ở pháp luật Việt Nam.
Cùng đồng tình với dự thảo trong việc tiếp cận quyền này của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đại biểu Trần Xuân Hoà (Quảng Ninh) nhấn mạnh, "xuất phát từ nguyên lý của tố tụng hình sự chứng minh tội phạm là trách nhiệm của bên buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh. Từ nguyên lý này, các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới đều công nhận quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại mình".
Cho rằng Bộ Luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam cũng đã tiếp cận quyền này, cụ thể bộ luật quy định bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai. Tuy nhiên, theo đại biểu Hoà, do cách thể hiện của luật chưa cụ thể, chưa minh bạch nên chưa tạo sự nhận thức thống nhất.
Dẫn ý kiến nếu quy định rõ như công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên và như dự thảo, thì sẽ khó khăn cho cơ quan điều tra, đại biểu Hoà cho rằng không thỏa đáng, chưa xuất phát từ tinh thần của Hiến pháp, từ cam kết của chúng ta với quốc tế, vẫn tư duy theo lối cũ, thuận cho nhà nước, khó khăn cho người dân. Theo đại biểu Hoà, việc này không thể chấp nhận được trong điều kiện Việt Nam đã ban hành và đang triển khai Hiến pháp năm 2013.