Trả lời: Ngày 27-12-2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch, thay thế cho Nghị định số 83/NĐ ngày 10-10-1998 về đăng ký hộ tịch. Điều 13 Nghị định 158 quy định thẩm quyền đăng ký khai sinh như sau: UBND xã, phường, thị trấn (gọi tắt là UBND cấp xã), nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ thì UBND cấp xã nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha thì UBND cấp xã nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi được thực hiện tại UBND cấp xã, nơi cư trú của người đang tạm thời nuôi dưỡng hoặc nơi có trụ sở của tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
Điều 14 quy định thời hạn đi khai sinh và trách nhiệm khai sinh như sau: Trong vòng 60 ngày (Nghị định cũ quy định trong vòng 30 ngày) kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.
Về thủ tục đăng ký khai sinh, người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh theo mẫu quy định và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (theo Nghị định cũ thì người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh và xuất trình không chỉ Giấy chứng nhận kết hôn mà còn cả Sổ hộ khẩu gia đình hoặc giấy đăng ký tạm trú của người mẹ và chứng minh nhân dân của người đi đăng ký khai sinh).
Trường hợp cán bộ tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
--------------------
Trình tự thay đổi nội dung hợp đồng lao động
Hỏi: Trong thời gian thực hiện hợp đồng, người lao động có yêu cầu người sử dụng lao động thay đổi nội dung hợp đồng lao động? Vậy trình tự thay đổi nội dung hợp đồng lao động được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Theo quy định tại mục 3 Phần II của Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22-9-2003 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9-5-2003 của Chính phủ về hợp đồng lao động thì trường hợp người lao động có yêu cầu người sử dụng lao động thay đổi nội dung hợp đồng lao động trong thời gian thực hiện hợp đồng thì trình tự thay đổi nội dung hợp đồng lao động được thực hiện như sau:
- Người lao động nêu nội dung cần thay đổi và thông báo cho người sử dụng lao động biết bằng văn bản.
- Khi người sử dụng lao động nhận được văn bản yêu cầu phải chủ động gặp người lao động để thỏa thuận về nội dung cần thay đổi, chậm nhất trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.
- Nếu hai bên thỏa thuận được việc thay đổi nội dung hợp đồng lao động, thì tiến hành ký kết phụ lục hợp đồng lao động theo mẫu quy định (mẫu số 2 ban hành kèm theo Thông tư này). Trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được việc thay đổi nội dung hợp đồng lao động, thì tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết hoặc thỏa thuận chấm dứt theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Lao động.
--------------------
Không đăng ký kết hôn có được thừa nhận là người thừa kế của chồng?
Hỏi: Tôi và chồng tôi tổ chức đám cưới vào ngày 15-10-2000 có sự chứng kiến, ủng hộ của hai bên gia đình, bè bạn và cơ quan nhưng không đăng ký kết hôn. Chúng tôi chưa kịp sinh con thì bất ngờ vào ngày 23-3-2003, chồng tôi bị tai nạn và đã mất. Sau khi chồng tôi mất không lâu, phía gia đình chồng phát sinh tranh chấp về khối tài sản chung của hai vợ chồng tôi vì họ cho rằng chỉ có mẹ chồng tôi mới là người thừa kế duy nhất của anh ấy (bố chồng tôi đã mất). Xin cho biết, trước pháp luật tôi có được thừa nhận là người thừa kế của chồng tôi không? Nếu tôi làm đơn khởi kiện tranh chấp về tài sản thì quyền lợi của tôi sẽ được giải quyết ra sao?
Trả lời: Tại điểm b, Điều 2 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 có quy định: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3-1-1987 đến ngày 1-1-2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày 1-1-2001 cho đến ngày 1-1-2003. Từ sau ngày 1-1-2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Như vậy, theo quy định trên thì chị và anh sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng vì hai người không có đăng ký kết hôn. Do đó, chị không được coi là người thừa kế của chồng chị. Trong trường hợp này, người thừa kế duy nhất thuộc hàng thứ nhất theo quy định tại Bộ luật Dân sự chính là mẹ của anh ấy.
Nếu chị làm đơn khởi kiện ra Tòa thì quyền lợi về tài sản của chị sẽ được giải quyết dựa trên nguyên tắc: Tài sản nào chị chứng minh được là của riêng chị thì chị được hưởng; tài sản nào mang tên anh ấy là di sản thừa kế và mẹ chồng chị được hưởng; còn tài sản nào không chứng minh được là của riêng ai thì sẽ chia đôi có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên (theo quy định tại Khoản 3, Điều 17, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).
--------------------
Quy định về tạm giữ người chưa thành niên theo thủ tục hành chính
Hỏi: Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện như thế nào, trong trường hợp đối tượng bị áp dụng là người chưa thành niên?
Trả lời:
Tạm giữ người là một trong những biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính, được quy định tại các điều 43, 44, 45 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định số 62/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 7-9-2004 ban hành Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lý vi phạm hành chính hoặc cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác.
Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không quá 12 giờ, nếu cần thiết việc tạm giữ có thể kéo dài hơn cùng không quá 24 giờ, kể từ thời điểm giữ người vi phạm. Đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, nếu tạm giữ họ vào ban đêm hoặc tạm giữ trên 06 giờ thì nhất thiết phải thông báo ngay cho cha mẹ hoặc người giám hộ của họ biết.
Việc tạm giữ phải có quyết định bằng văn bản và phải giao cho người bị tạm giữ một bản.
Không được giữ người vi phạm hành chính trong các nhà tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ.