Quảng Ngãi nỗ lực giảm tỷ lệ nghèo đa chiều

Những năm qua, công tác giảm nghèo luôn được các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh Quảng Ngãi chú trọng triển khai, hằng năm tỷ lệ hộ nghèo giảm, đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo đa chiều của tỉnh hiện vẫn ở mức khá cao so với các tỉnh trong khu vực có nhiều tương đồng về điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Thực trạng này, đòi hỏi tỉnh cần có giải pháp hiệu quả để kéo giảm tỷ lệ nghèo đa chiều.
Người nghèo huyện miền núi Sơn Hà nỗ lực sản xuất vươn lên thoát nghèo.
Người nghèo huyện miền núi Sơn Hà nỗ lực sản xuất vươn lên thoát nghèo.

Theo Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi, hiện tỷ lệ nghèo đa chiều trên địa bàn tỉnh chiếm 11,1%, trong đó, tỷ lệ hộ nghèo 6,13% và cận nghèo 4,97%. Với tỷ lệ này, Quảng Ngãi đứng thứ 13/14 tỉnh, thành phố thuộc vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung.

Nhận diện nguyên nhân

Qua kết quả rà soát tiêu chí nghèo đa chiều theo quy định hiện hành cho thấy, nhiều chỉ số dịch vụ xã hội cơ bản của hộ gia đình thiếu hụt chiếm tỷ lệ lớn, dẫn đến nhiều hộ thiếu hụt từ ba chỉ số trở lên cho nên rơi vào hộ nghèo. Chẳng hạn, bảo hiểm y tế có 14.775 hộ, chiếm tỷ lệ 63,37%; việc làm hơn 7.410 hộ, tỷ lệ 31,79%; chất lượng nhà ở 7.431 hộ, tỷ lệ 31,87%; nhà tiêu hợp vệ sinh 13.889 hộ, tỷ lệ 59,57%; sử dụng dịch vụ viễn thông 13.040 hộ, tỷ lệ 55,92%...

Đáng lo ngại, tình trạng phát sinh mới hộ nghèo ở một số địa phương vẫn còn xảy ra. Cụ thể, năm 2022 có 722 hộ nghèo, năm 2023 có 579 hộ nghèo phát sinh mới. Trong đó, huyện miền núi Sơn Hà là địa phương có hộ nghèo phát sinh cao nhất, với mức bình quân mỗi xã 10 hộ.

Lý giải nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo đa chiều của tỉnh cao so với các tỉnh, thành phố trong khu vực, Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Ánh Lan cho rằng, Quảng Ngãi có tỷ lệ hộ nghèo đầu kỳ giai đoạn 2022-2025 khá cao, ở mức 9,11%, nên mặc dù hai năm qua, tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh là 2,98% nhưng cũng rất khó để theo kịp các tỉnh lân cận.

Mặt khác, qua thực tiễn cho thấy, hiện tại bộ công cụ rà soát đánh giá xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo theo các chỉ số thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản còn nhiều bất cập.

Cụ thể, hộ gia đình không mua sắm tài sản dẫn đến ước lượng ra thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo; thu nhập bình quân của hộ gia đình sử dụng phương pháp ước lượng thu nhập từ việc chấm điểm tài sản và đặc điểm của hộ gia đình cho nên tổng số điểm được rà soát trong hộ cao, dẫn đến ước lượng ra thu nhập của hộ gia đình thấp dưới mức chuẩn nghèo.

Đơn cử, nhiều hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số có nhà hai gian, nuôi cả đàn trâu nhưng chỉ thiếu thiết bị nghe nhìn, khi đánh giá, xếp loại không đủ chuẩn nên tính vào diện nghèo đa chiều.

Trong khi đó, do thói quen ít mua sắm tài sản trong gia đình, nhất là hộ thuộc dân tộc thiểu số ở miền núi, cho nên số điểm chấm về tài sản trong hộ cao, dẫn đến ước lượng ra thu nhập của hộ gia đình thấp dưới mức chuẩn nghèo. Một bộ phận hộ nghèo, hộ cận nghèo còn có tư tưởng không muốn thoát nghèo, thỏa mãn với cuộc sống hiện tại, không tích cực lao động, sản xuất để tăng thu nhập, mua sắm tài sản trong hộ để tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Công tác đánh giá, phân loại hộ nghèo chưa sâu sát, còn nể nang.

Về tình trạng phát sinh mới hộ nghèo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đinh Thị Trà cho biết, với đặc thù miền núi Sơn Hà, người dân sống dựa vào nông nghiệp, trong đó chủ yếu là trồng keo lai và sắn nhưng giá thu mua keo bấp bênh, còn sắn bị bệnh khảm lá hoành hành vẫn chưa có giải pháp phòng chống cho nên thu nhập của người dân giảm sút, trong khi đó tiêu chí thu nhập chuẩn nghèo đa chiều lại tăng.

Nâng cao ý thức thoát nghèo

Theo đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, trong khi quy mô kinh tế của tỉnh đứng thứ hạng cao so với các tỉnh trong khu vực thì tỷ lệ hộ nghèo lại đứng áp chót. Vì vậy, mục tiêu giảm nghèo của tỉnh còn nhiều việc phải làm. Đồng chí dẫn chứng, miền núi của Quảng Nam hay Nghệ An cũng khó khăn không khác gì Quảng Ngãi nhưng tỷ lệ hộ nghèo các tỉnh này lại thấp hơn Quảng Ngãi.

Vậy nguyên nhân từ đâu, từ ý thức vươn lên thoát nghèo của người dân, việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ hay khâu đánh giá, xếp loại? Thực tế này, đòi hỏi các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh cấp thiết phải nhận diện, đánh giá thấu đáo nguyên nhân, từ đó đưa ra giải pháp căn cơ, đồng bộ và quyết liệt triển khai thực hiện, nhằm kéo giảm tỷ lệ nghèo đa chiều trên địa bàn tỉnh xuống còn 3,67% vào cuối năm 2025 để có thứ hạng nằm trong nhóm trung bình của khu vực.

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Nguyễn Thị Ánh Lan cho biết, tỉnh đã đưa ra nhiều giải pháp cụ thể đối với huyện ủy, thành ủy, thị ủy, các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh và ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố. Trong đó, vấn đề cấp thiết là các địa phương phải rà soát, phân loại cụ thể, niêm yết, thông báo công khai nhóm đối tượng hộ nghèo, cận nghèo có khả năng lao động để xây dựng kế hoạch hỗ trợ.

Từ đó, giao nhiệm vụ cho từng đảng viên chi bộ thôn, tổ dân phố phụ trách hướng dẫn hộ nghèo, hộ cận nghèo nắm bắt thông tin liên quan đến công tác giảm nghèo, những kiến thức, kỹ năng lao động sản xuất, kinh doanh để phấn đấu lao động, sản xuất vươn lên thoát nghèo; đồng thời, phát huy tối đa nguồn lực từ ba chương trình mục tiêu quốc gia; nguồn vốn tín dụng ưu đãi; huy động sự tham gia đóng góp của hộ nghèo, hộ cận nghèo trong thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm tăng thu nhập và giải quyết các chỉ số thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản.

"Để giảm nghèo bền vững, ngoài sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, nguồn lực đầu tư của Nhà nước thì ý thức, nghị lực, quyết tâm vươn lên của người dân là yếu tố then chốt.

Do vậy, phải "đi từng ngõ, gõ cửa từng nhà" tuyên truyền, nâng cao nhận thức để người nghèo thay đổi tư tưởng không muốn thoát nghèo, tích cực lao động, sản xuất, tăng thu nhập cho gia đình. Có như vậy công cuộc giảm nghèo bền vững của địa phương mới thật sự hiệu quả", đồng chí Nguyễn Thị Ánh Lan nhấn mạnh.

Có thể bạn quan tâm