Quản lý và xử lý an toàn hóa chất bảo vệ thực vật nhóm POP

Hóa chất BVTV nhóm POP tồn lưu
tại kho xã Hưng Tây, Hưng Nguyên
(Nghệ An).
Hóa chất BVTV nhóm POP tồn lưu tại kho xã Hưng Tây, Hưng Nguyên (Nghệ An).

Tuy nhiên, đến nay điều tra thống kê số hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) nhóm này trên cả nước tồn lưu bao nhiêu tấn, phương pháp xử lý ra sao là vấn đề đang được các nhà chuyên môn và quản lý nghiên cứu, triển khai thực hiện.

Ðược sự tài trợ của UNDP, dự án Nâng cao năng lực quản lý và xử lý an toàn hóa chất BVTV nhóm POP được khởi động từ đầu năm 2007. Tiến sĩ Ðặng Ðức Nhân, Tư vấn báo cáo khảo sát thống kê cho biết: Do thời gian triển khai thực hiện dự án gấp gáp nên bước đầu nhờ sự giúp đỡ của 25 tỉnh, thành phố, dự án điều tra thống kê được số thuốc BVTV tồn lưu trong kho có mái che (gần 130 tấn), thuốc BVTV chôn lấp dưới đất (gần 1.000 m3) và diện tích đất bị ô nhiễm do hóa chất BVTV khoảng 55 nghìn m2. Dĩ nhiên đây chỉ là con số ít ỏi so với hàng chục nghìn tấn thuốc DDT, 666 vào nước ta bằng nhiều đường. Những năm 60, 70, 80 của thế kỷ trước, các hóa chất BVTV DDT, 666 ngoài việc phân phối về cho nông dân phun, xịt phòng trừ sâu, bệnh, người ta cũng dùng các hóa chất này trừ muỗi phòng bệnh sốt rét hay dùng chống mối mọt, bảo quản vũ khí, quân trang ở các đơn vị quân đội.

Thạc sĩ Võ Văn Hồng, Trưởng Phòng quản lý môi trường (Sở Tài nguyên - Môi trường Nghệ An) cho rằng: Mấy năm trước đây, Nghệ An tiến hành việc điều tra, thống kê xem trên địa bàn tỉnh có bao nhiêu điểm tồn lưu thuốc BVTV; đồng thời tìm cách xử lý 17 tấn các hóa chất BVTV thu gom được. Ðến nay, sơ bộ đã thống kê được hơn 50 địa điểm là kho, bãi chứa DDT, 666 trước đây; tập trung nhiều nhất là vùng Tân Kỳ, Nghĩa Ðàn (30 điểm) vì nơi đây, thời bao cấp có gần mười nông trường chuyên trồng cây thông, và các loại cây cần sử dụng một khối lượng lớn các hóa chất BVTV. Các huyện Ðô Lương, Yên Thành, Nam Ðàn có từ ba đến năm điểm kho chứa hóa chất BVTV, có nơi như các xóm 1, xóm 2 xã Nghĩa Trung, huyện Nghĩa Ðàn, trước đây có tới năm kho hóa chất BVTV; ngay các bệnh viện lao, giao thông thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sơ tán về đây có nơi cất giữ DDT, 666 nhưng sau chuyển đi, số hóa chất BVTV vương vãi không được xử lý. Ngoài ra ở Nghệ An, những năm 60, 70 của thế kỷ trước, các huyện miền núi như Tương Dương, Anh Sơn, Con Cuông, Kỳ Sơn, Nghĩa Ðàn, Quế Phong... bị dịch bệnh sốt rét hoành hành. Ngành y tế cũng đã sử dụng một khối lượng không nhỏ hóa chất BVTV để diệt côn trùng, phòng, chống sốt rét mà đến nay chưa có điều kiện điều tra, thống kê.

Cũng theo ông Hồng tình trạng kinh doanh, buôn bán thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh lâu nay bị buông lỏng, bên cạnh thường xuyên có gần 150 cơ sở kinh doanh thì số buôn bán nhỏ lẻ theo mùa vụ khá phổ biến, có năm thống kê lên tới khoảng 400 cơ sở. Mặt hàng thuốc BVTV lưu thông trên thị trường Nghệ An đủ các chủng loại, trong đó các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ được bày bán tràn lan tại các thị trấn, thị tứ. Tại Hà Tĩnh, theo Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh thì qua các đợt điều tra thống kê, ngành chủ quản thu gom 18,5 tấn hóa chất BVTV quá hạn tồn lưu với các dạng bột, nước. Không kể một số khu vực, điểm độc lập trên địa bàn tỉnh chưa điều tra, thống kê được, trong số mười điểm đã phát hiện, đáng chú ý có điểm kho ở xã Thạch Lưu, Thạch Hà (xây dựng từ năm 1967) tồn lưu 3.300 kg DDT và 666; tương tự ở xã Vĩnh Lộc, huyện Can Lộc, tồn trong kho 2.400 kg thuốc BVTV cách đây 40 năm. Ðặc biệt qua khảo sát người ta đã phát hiện trong vườn nhà ông Nguyễn Viết Huy ở Tiểu khu 6, thị trấn huyện Kỳ Anh có 7.000 kg thuốc DDT, 666 và các loại khác do trạm BVTV huyện hợp đồng chôn lấp từ năm 1987. Khảo sát, thống kê và thu gom một số lượng khá lớn các hóa chất BVTV như vậy, nhưng do thiếu kinh phí và các yếu tố khác, cho nên đến nay, số hóa chất tồn lưu ở Hà Tĩnh phần lớn được chứa trong các bể xây bằng xi-măng mà chưa có biện pháp tiêu hủy.

Ở Tuyên Quang, theo ông Trịnh Việt Thanh, Trưởng Phòng quản lý môi trường (Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh), số điểm tồn lưu hóa chất BVTV nhóm POP không nhiều; nhưng thời gian qua cũng đã phát hiện một số điểm đáng chú ý. Ðó là kho thuốc trừ sâu của Nông trường chè Tân Trào (cũ) từ năm 1961, bị vùi lấp, lãng quên nhiều năm. Năm 2000, trong quá trình san ủi mặt bằng để xây dựng trường học, người ta phát hiện lẫn trong nền đất rất nhiều thuốc BVTV.

Cuối năm 2004, UBND tỉnh Tuyên Quang phê duyệt dự án "Khảo sát, xử lý ô nhiễm khu vực có kho thuốc trừ sâu của Nông trường chè Tân Trào (cũ)". Với nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học của tỉnh, cuối năm 2006, Tuyên Quang hoàn thành việc xử lý diện tích đất bị ô nhiễm theo điều tra, khảo sát là 3.150 m2. Kho thuốc DDT và 666 của Ty Y tế (nay là Sở Y tế Tuyên Quang) ở làng Ải, xã Trung Môn, huyện Yên Sơn, phục vụ công tác phòng, chống sốt rét thời kỳ 1966 - 1970. Sau khi phát hiện, ngày 16-11-2006, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang có quyết định số 1109 phê duyệt Dự án điều tra, xử lý khu vực bị ô nhiễm thuốc DDT, 666 gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại làng Ải, xã Trung Môn, huyện Yên Sơn với tổng kinh phí hơn một tỷ 565 triệu đồng. Song do nguồn kinh phí hạn hẹp cho nên Tuyên Quang dự kiến năm 2008 mới hoàn thành việc xử lý khu vực bị ô nhiễm nặng do tồn lưu của hóa chất BVTV nhóm POP... POP là các hợp chất ít tan trong nước, khó phân hủy trong môi trường nhưng lại gây ô nhiễm nặng đối với môi trường nước, đất, không khí; theo đó lan sang các sản phẩm cây trồng, vật nuôi.

Các nhà khoa học sau nhiều năm nghiên cứu đã chỉ ra tác hại của hóa chất BVTV POP đối với sức khỏe con người. Những trường hợp nhiễm độc nặng các hóa chất BVTV có thể dẫn đến đẻ non, suy nhược thần kinh, rối loạn nội tiết và không loại trừ ung thư gan, dạ dày.

Một số nhà khoa học cũng đưa ra các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu và loại trừ hóa chất BVTV POP. Trong đó nhấn mạnh giải pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về tác hại ảnh hưởng của hóa chất BVTV đối với sức khỏe và môi trường sống để từ đó có sự hợp tác với cơ quan chức năng trong công tác quản lý các hóa chất BVTV. Một mặt tăng cường kiểm soát chặt chẽ tình trạng nhập lậu thuốc BVTV qua biên giới, mặt khác coi trọng công tác giám sát, sử dụng hợp lý hóa chất BVTV, đồng thời xây dựng được chương trình kiểm soát dư lượng thuốc BVTV quốc gia. Người ta cũng nêu ra các công nghệ tiêu hủy hóa chất BVTV dạng POP. Chẳng hạn, công nghệ tiêu hủy bằng lò đốt chuyên dụng chất thải nguy hại với nhiệt độ tối thiểu 1200oC, công nghệ tiêu hủy DDT và cơ phốt- pho bằng phương pháp hóa học, xử lý đất ô nhiễm hóa chất BVTV POP bằng phương pháp sinh học và hóa học nước bề mặt, sử dụng phương pháp kích thích sinh học để tạo quá trình phân hủy POP bằng các sinh vật bản địa... Nghĩa là vừa có công nghệ nhập của nước ngoài đắt tiền và công nghệ trong nước kém tiên tiến, nhưng tiết kiệm được chi phí phục vụ công tác xử lý các hóa chất BVTV tồn lưu dạng POP.

Phạm vi của dự án Nâng cao năng lực quản lý và xử lý an toàn hóa chất BVTV POP, theo Cục bảo vệ môi trường chỉ dành cho số hóa chất tồn lưu hiện có trong các kho tàng có mái che, số chôn lấp dưới đất được phát hiện và thời gian thực hiện dự án cũng ngắn. Tuy nhiên, trong cuộc hội thảo về dự án này, được tổ chức vào hai ngày 13 và 14-8 vừa qua tại Hà Nội, khá nhiều ý kiến đưa ra tranh luận. Tại sao dự án chỉ dừng lại số hóa chất BVTV hiện diện trong kho và một số ít chôn lấp có "địa chỉ" cách đây mấy chục năm, nay mới phát hiện được? Vậy còn bao nhiêu điểm khác (số này còn nhiều) rải rác trên nương rẫy, trong vườn nhà dân; thậm chí không ít cơ sở y tế thời chiến tranh sơ tán về vùng này vùng nọ, có sử dụng hóa chất BVTV diệt côn trùng, phòng trừ dịch bệnh nhưng khi chuyển đi nơi khác để vương vãi, mưa gió rửa trôi, gây ô nhiễm nặng môi trường thi sao? Việc khắc phục hậu quả ảnh hưởng sức khỏe người dân khu vực có kho, bãi hóa chất BVTV trước đây như thế nào? Tất cả những vấn đề thiết thực và bức xúc đó đều phải được tính toán, tìm cách giải quyết chứ không thể làm theo kiểu nửa vời.

* Ông Nguyễn Văn Sáng, Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Tĩnh

Có lẽ do quy định của nhà tài trợ dự án cho nên diện điều tra, thống kê còn hạn hẹp. Các hóa chất BVTV dạng POP ở nước ta không nhiều nhưng xuất hiện cách đây 40 - 50 năm và được sử dụng cho nhiều ngành nghề khác nhau, nếu có điều kiện khảo sát, thống kê trên diện rộng cả nước thì số hóa chất BVTV tồn lưu còn lớn gấp nhiều lần. Có một vấn đề cần quan tâm là tình trạng các hóa chất BVTV tồn dư, lẫn trong đất gây ô nhiễm nhiều nơi. Chính phủ nên đầu tư cho một dự án điều tra, thống kê rộng hơn, công phu hơn nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do hóa chất BVTV gây ra.

* Thạc sĩ Ðỗ Thanh Bái, tư vấn kế hoạch xử lý hóa chất BVTV POP

Hóa chất BVTV nhóm POP tồn lưu dưới nhiều dạng: Trong kho có mái che, chôn lấp dưới lòng đất, lại có một số phân tán trộn lẫn trong đất. Bởi vậy chúng tôi nêu ra một số công nghệ tiêu hủy để các tổ chức, địa phương lựa chọn. Không thể có một phương pháp công nghệ chung cho tất cả. Tùy từng hoàn cảnh và hình thức tồn lưu của hóa chất BVTV mà mỗi địa phương áp dụng công nghệ tiêu hủy đạt hiệu quả an toàn, bền vững, nhưng phù hợp khả năng tài chính của mình.

Có thể bạn quan tâm