“Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa"... lời ca trong một bài hát quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Thành đã gợi cho nhiều người nhớ về một miền đất thiêng liêng của Tổ quốc, nơi đã ghi một trang vàng trong lịch sử dựng nước và giữ nước - chiến công Ðiện Biên Phủ lừng lẫy năm châu.
Miền Tây Bắc giáp với miền Ðông Bắc, về hữu ngạn sông Hồng, là miền núi cao và đồ sộ nhất nước ta. Diện tích khoảng 63.600 km2. Miền Tây Bắc không phải chỉ bao gồm địa giới hành chính của các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Ðiện Biên và Lai Châu mà là một vùng lãnh thổ rộng lớn hơn nhiều, với điểm cực Bắc là vĩ độ 22,58 giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, điểm cực nam ở vĩ độ 19,05 ngăn cách với miền Trường Sơn bởi thung lũng sông Cả. Phía tây là biên giới Việt - Lào và phía đông là sông Hồng. Như vậy nói tới miền Tây Bắc còn phải kể thêm một phần đất đai của các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa và Nghệ An nữa.
Miền đất của những núi cao và cao nguyên
Ði từ đông sang tây, từ thung lũng sông Hồng tới biên giới Việt - Lào, đầu tiên chúng ta gặp dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ, nằm thành một khối vững chắc, dài 180 km, rộng 30 km chạy từ biên giới Trung Quốc tới Vạn Yên. Các đỉnh núi đều cao từ 2.800 đến hơn 3.000 m, chỉ có một điểm thấp duy nhất, 1.069 m, là đèo Khau Cọ trên đường từ Bảo Hà đi Than Uyên. Ðỉnh Phan Xi Păng, 3.143 m, cao nhất Ðông Dương.
Tiếp đến là một vùng núi thấp, rộng lớn thuộc lưu vực sông Ðà, bị chia cắtdữ dội và một dải cao nguyên đá vôi rất điển hình chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, dài 400 km, rộng 10-25 km,cao từ 600 - 1.000 m, là các cao nguyên Tà Phìn, Sin Chải, Sơn La và Mộc Châu. Quốc lộ số 6 từ Hà Nội lên Tây Bắc chạy dọc theo dải bốn cao nguyên này.
Sang đến tận cùng phía tây, nơi là biên giới với nước bạn Lào, chúng ta lại gặp một vùng núi cao trung bình thường được gọi là dãy núi sông Mã dài tới 500 km và có những đỉnh cao 1.800 m, tỏa rộng cả sang Lào, ở Sầm Nưa và lan xuống tận thượng du Thanh Hóa và Nghệ An rồi đổ ra biển ở khu vực Hoàng Mai...
Tất cả các dãy núi và cao nguyên nói trên đều chạy song song với nhau theo thướng tây bắc - đông nam. Con sông Ðà như một dải lụa vắt ngang, cũng chảy theo hướng đó chia miền Tây Bắc thành hai nửa gần bằng nhau.
Ðã có nhiều du khách, nhiều nhà địa lý đến từ nhiều nước, từng ca ngợi Tây Bắc của chúng ta là một sơn nguyên đẹp có một không hai trên thế giới.
Ở Tây Bắc có đầy đủ năm dạng địa hình: núi cao (chiếm 2% diện tích), núi trung bình (chiếm trên 26%), núi thấp (chiếm 46%), cao nguyên (chiếm 8%) và các vùng trũng kiến tạo giữa núi bao gồm các cánh đồng Nghĩa Lộ, Quang Huy, Than Uyên, Ðiện Biên... và hơn hai chục cánh đồng lớn nhỏ khác (chiếm 17%).
Lịch sử hình thành đầy biến động
Không phải ngẫu nhiêu mà Tây Bắc có địa hình phức tạp. Miền lãnh thổ độc đáo này đã được hình thành từ cách đây 500 triệu năm, phát triển trên một miền hoạt động tân kiến tạo, nâng lên mạnh, các quá trình ngoại lực diễn ra mạnh mẽ, chia cắt sâu và dày, với một lịch sử đầy biến động.
Thuở ban đầu toàn miền ngập chìm dưới một biển nước mênh mông, là đầu mút cuối cùng dải biển Tê-tít cũ kéo dài từ Ðịa Trung Hải thuộc châu Âu qua khu vực của dãy núi Hymalaia. Khi đó chỉ có một vài đỉnh núi cao nhất của dãy Hoàng Liên Sơn và dãy sông Mã là nhô lên trên mặt nước như những hòn đảo.
Thế rồi biển rút để trơ ra các vùng đồi núi. Rồi biển lại tiến vào và lại kéo dài hàng trăm triệu năm ngập nước, tạo thành các vùng trầm tích đá vôi, các mặt bằng cao nguyên khá bằng phẳng. Vào cuối đại Cổ Sinh, cách đây khoảng 300 triệu năm, dãy Hoàng Liên Sơn và dãy sông Mã được nâng lên cao hẳn.
Vùng đất nằm kẹp giữa hai dãy núi cao và rắn chắc, ta quen gọi là vùng địa máng sông Ðà, cứ liên tục bị ép, bị nén bởi các biến động địa chất, những hoạt động sụt lún, những vận động tạo sơn... Nhiều nơi các dung nham từ lòng đất xâm nhập vào các dải đứt gãy tạo nên các tầng uốn nếp, các tầng biến chất, các mỏ khoáng sản ngày nay. Các sông suối vì vậy mà có biết bao ghềnh thác, bao nhiêu khúc uốn, bao nhiêu chi nhánh, chi lưu...
Nhiều tài nguyên phong phú
Trước hết thuộc về miền Tây Bắc có tới 11 đới cấu trúc - tướng đá là các đới Phan Xi Păng, Tú Lệ, sông Ðà, Sơn La, Thanh Hóa, đới phụ Ninh Bình, sông Mã, Pu Hoạt, Sầm Nưa, Mường Tè, Ðiện Biên và phần nhỏ phía bắc của đới Trường Sơn.
Chế độ kiến tạo mạnh mẽ ở đầu đại Mêzôzôi đã hình thành ra hố sụt sông Ðà và các đứt gãy ở các đới chung quanh như Sơn La, Ðiện Biên, Mường Tè... Các hoạt động phun trào và xâm nhập của các mác ma từ trong lòng trái đất làm thay đổi hình dạng và cấu trúc các địa tầng.
Miền Tây Bắc có các mỏ nội sinh đồng, kền, chì, vàng, bạc... được hình thành chủ yếu trong thời kỳ tạo núi của chu kỳ uốn nếp Inđôxini có liên quan đến các khối mác ma Bản Xang, Tú Lệ. Các mỏ ngoại sinh phong phú hơn liên quan chặt chẽ đến các đá trầm tích, đá biến chất tuổi Prôtêrôzôi như các mỏ sắt ở hữu ngạn sông Hồng. Còn có mỏ than ở Khe Bố, sa khoáng ở các thung lũng và bồn địa (thiếc, sắt, vàng...), các khoáng sản không kim loại như mica, atbet, tan, pirit, baritin... khá phong phú.
Ở Tây Bắc vành đai đất Feralit vàng đỏ có mùn chiếm ưu thế. Ðất ẩm, ít kết von, càng lên cao càng ẩm, mùn càng nhiều, ôxit nhôm nhiều hơn ôxit sắt. Vành đai trên cao xuất hiện loại đất mùn alit và vùng Trường Sơn Bắc có đất nâu đỏ sẫm phát triển trên đá bazan.
Toàn bộ sông ngòi ở Tây Bắc gồm sáu hệ thống: các sông chảy vào sông Hồng, sông Ðà, sông Mã - sông Chu, sông Nậm Rốm, sông Con và sông Cả.
Các sông chảy vào sông Hồng (phía đông dãy Hoàng Liên Sơn) bao gồm 132 sông suối có độ dài 10 km trở lên.
Các sông chảy vào sông Ðà có 187 sông suối; các sông chảy vào sông Mã - sông Chu có 80 sông suối; các sông chảy vào Nậm Rốm có năm sông suối... Như trên đã nói, do địa hình phức tạp, chia cắt lớn và dày, các sông có vô vàn ghềnh thác... và đây là nguồn thủy điện vô tận, một loại tài nguyên đặc thù của Tây Bắc.
Thực vật ở Tây Bắc có những nét riêng biệt phù hợp với các điều kiện khí hậu và địa hình. Dưới các đai thấp có rừng nhiệt đới ẩm điển hình. Lên cao dần gặp các loại rừng á nhiệt đới và ôn đới. Tuy nhiên rừng Tây Bắc, hơn ở nơi nào hết, đã bị tàn phá kiệt quệ. Nhiều nơi trước đây là rừng đại ngàn nay chỉ còn là đồi núi trọc. Nhất là ở các vùng rẻo cao. Không lâu trước đây người ta đã gặp và khai thác ở trong rừng Tây Bắc những tô hạp hương, táu, lim, sến, nghiến, trám đen, trám trắng, dẻ, lạt hoa, săng lẻ, pơ mu, du sam, hồi, thông nàng,... và các loại măng, thảo quả, nấm hương, mộc nhĩ, củ nâu, đẳng sâm, nhân sâm, y dĩ... những thứ đó giờ đây đã ít dần, có thứ hầu như đã hết.
Ðộng vật ở Tây Bắc cũng được xem là khá phong phú, có quan hệ mật thiết với các hệ động vật Miến Ðiện, Lào và Vân Nam. Các nhóm gặm nhấm và linh trưởng có rất nhiều đại diện. Các loài sống trên cây có vượn, sóc bay, vẹc xám, và rất nhiều khỉ (có khỉ mặt mốc và khỉ mặt đỏ). Sống ở rừng thưa thì có nai, hoẵng, báo sao, đôi khi có cả hổ. Trên các núi đá vôi thì có sơn dương, vượn bạc má. Giáp biên giới Việt - Lào nhiều khi gặp voi đàn, bò tót, tê giác... Lên cao từ 2.000 m trở lên dễ gặp được sơn dương, gấu, mèo rừng, cầy cáo... Dưới các bồn địa, thung lũng có các loại chim đồng dạng Quảng Tây, Quảng Ðông như sáo đen mỏ ngà, bách thanh, chim chích đuôi dài... lên cao dần 500-1.000 m gặp chim hệ Miến Ðiện như gà lôi trắng đuôi trung bình, chèo bẻo đuôi cờ, sơn tiêu vàng, di cam, di đá... Cao hơn nữa, độ cao 1.000-2.000 m gặp giẽ giun rừng, họa mi rừng... Cao từ 2.000 m trở lên có các loài thuộc hệ Hymalaia như gà lôi núi, họa mi vẩy, các loại chim nhỏ hút mật, phượng hoàng đất, các loại cú, hồng hoàng, công, các loại chim ăn ong... Dưới suối và trong các hồ, đầm có nhiều loại cá là đặc sản như cá bống, cả sỉnh, cá lòa, cá hoa, cá chày, cá chiên, cá rầm xanh, cá nén...
Ðặc biệt ở Tây Bắc có cánh kiến đỏ là sản phẩm xuất khẩu độc đáo.
Khai thác không dễ dàng
Miền lãnh thổ Tây Bắc hùng vĩ và tươi đẹp nhưng với một điều kiện tự nhiên rất đặc thù, rất phức tạp. Trong công cuộc khai thác tự nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đây không thể áp đặt, không thể rập khuôn các công thức, các phương án của các nơi khác. Do địa hình phức tạp, xây dựng hồ nước, làm thủy điện là đồng nghĩa với di dân tái định cư. Do khí hậu khác nhau nên nói đến mở các vùng trồng cây công nghiệp là đụng đến các điều kiện khí hậu khác nhau, là đụng đến phá rừng, nhiều chỗ có các loại cây đặc sản. Do cần lao động nên phải điều chuyển từ miền xuôi lên và là đụng đến an ninh lương thực, đụng đến quan hệ các dân tộc...
Tất cả đều đòi hỏi những phương án quy hoạch dài hạn và ngắn hạn đầy đủ chi tiết và khả thi. Những phương án như vậy chỉ có được khi chúng ta có đầy đủ và đồng bộ các dữ liệu điều tra cơ bản với các số liệu phân tích chính xác, toàn diện và hợp lý.
Sau thủy điện Hòa Bình là thủy điện Sơn La, rồi đến thủy điện Mường Chiến. Ðã có dự tính rằng sau nữa sẽ có ít nhất sáu đến chín công trình thủy điện tầm cỡ như các công trình này được xây dựng ở miền Tây Bắc công nghiệp hóa.
Ðã từ lâu chúng ta tự hào về nền nông nghiệp Tây Bắc truyền thống với "Cam Mường Pồn, Gạo Ðiện Biên; Nấm hương Phong Thổ, Hoàng Liên Mường Tè". Rồi nền nông nghiệp Tây Bắc xã hội chủ nghĩa với chè và sữa Mộc Châu, gần đây là cà-phê Sơn La...
Ðã và sẽ có nhiều những chuyến đi ngoạn mục lên dãy Hoàng Liên Sơn bắt đầu từ khu an dưỡng Sa Pa; những chuyến đi từ Hà Nội dọc theo quốc lộ 6, xuyên qua dải bốn cao nguyên đá vôi để viếng thăm các chiến trường xưa Nà Sản, Ðiện Biên Phủ... của du khách trong và ngoài nước...
Tuy nhiên, cũng ở nơi đây, nơi bao chiếm toàn bộ lưu vực, toàn bộ "vùng tập thủy" của các công trình thủy điện đã và sẽ xây dựng ở Tây Bắc, nơi mà hệ thống khí hậu đặc biệt pha trộn giữa nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới,... độ che phủ dưới 20%, có nơi dưới 10%, thấp nhất so với các vùng trong cả nước! Bạt ngàn cỏ tranh và đất trống đồi núi trọc, nhất là ở vùng cao. Mùa mưa xói mòn, sạt núi, lở đất và lũ lụt xảy ra càng ngày càng nghiêm trọng. Mùa khô thì các sông suối, thậm chí cả hồ chứa nước, trở nên cạn kiệt, nhiều nơi không có cả nước sinh hoạt. Về mùa khô đã thấp thoáng hình bóng của một vùng đang bị sa mạc hóa!
Hơn ở đâu hết, Tây Bắc cần có ngay những phương án hồi phục rừng cây (độ che phủ đạt mức 35-40%), khôi phục cân bằng sinh thái đi cùng với các phương án khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế, văn hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.