Fidel Castro viết về chuyến thăm Việt Nam tháng 9 năm 1973

NDO - Báo Nhân Dân xin giới thiệu nội dung diễn văn của Chủ tịch Fidel Castro tại buổi chiêu đãi từ biệt của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cuba, tối 16/9/1973; đăng trong cuốn sách: “Fidel Castro và Việt Nam, Những kỷ niệm không quên”, Nhà xuất bản Thế giới, 2020, của Đại sứ Nguyễn Đình Bin, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Ngoại giao và các nhà báo Lê Phúc Nguyên, Nguyễn Duy Tường chủ biên.
0:00 / 0:00
0:00
Những tư liệu về tình cảm đặc biệt của Lãnh tụ Fidel Castro dành cho Việt Nam trong chuyến thăm Quảng Trị nói riêng tháng 9/1973 và với nhân dân Việt Nam nói chung.
Những tư liệu về tình cảm đặc biệt của Lãnh tụ Fidel Castro dành cho Việt Nam trong chuyến thăm Quảng Trị nói riêng tháng 9/1973 và với nhân dân Việt Nam nói chung.

Sau đây là nội dung:

“Đoàn đại biểu chúng tôi vô cùng xúc động trước những ấn tượng sâu sắc trong thời gian ở Việt Nam. Ở đây chúng tôi đã được thấy những điều trước đây chúng tôi hằng mong đợi và cả những điều mà trước đây chúng tôi chưa hề nghĩ đến.

Những cuộc hội đàm giữa những đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ đã thể hiện rõ ràng tình hữu nghị vĩ đại, sự thông cảm sâu sắc, lòng tin tưởng lẫn nhau và sự nhất trí về quan điểm giữa hai Đảng và hai Chính phủ.

Chúng tôi đã được nhân dân đón tiếp một cách rất trìu mến, một sự trìu mến không phải phát sinh từ xã giao mà là nảy sinh ra từ mối tình đoàn kết, mối tình anh em và sự nhất trí của hai dân tộc chúng ta trong sự nghiệp đấu tranh.

Ở đây, chúng tôi đã có thể thấy được tận mắt cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo chống lại nhân dân Việt Nam. Ở mọi nơi, dù là từ trên máy bay hay trên mặt đất, chúng tôi đã có thể thấy được hậu quả của sự tàn phá, tội ác to lớn chống lại nhân dân Việt Nam.

Chỉ nhìn ở đó thôi cũng đã khó có thể tưởng tượng được rằng, người ta đã dùng đến một khối lượng bom lớn đến thế để chống lại một nước nhỏ bé đang đấu tranh chỉ với mục đích là bảo vệ quyền độc lập của mình.

Chúng tôi đã thấy muôn vàn hố bom. Không thể nào có thể lường được hàng triệu hố bom trên đất nước Việt Nam do hậu quả của những cuộc ném bom. Những hố bom đó có ở khắp nơi, trên các đồng lúa, trong các làng mạc, đồng bằng, miền núi, cạnh những con đường và bên những dòng sông.

Từ trên không, người ta có thể thấy rằng chúng đã ném bừa bãi những quả bom đó xuống bất cứ một địa điểm nào trên lãnh thổ Việt Nam nhằm gây nên sự khủng khiếp trong nhân dân. Sự thật là một vài nơi bị ném bom trông giống như một cảnh trên mặt trăng.

Chúng tôi đã đến thăm tỉnh Quảng Bình anh hùng. Ở đấy không còn một nóc nhà, một tòa nhà, không một công trình xây dựng, không một mái trường, không một bệnh viện nào còn nguyên vẹn. Nhân dân ở đây đã sống những năm trời ròng rã ở dưới mặt đất. Hậu quả của chiến tranh cho đến ngày nay vẫn còn. Hầu như hằng ngày vẫn có người Việt Nam thiệt mạng và đổ máu do hậu quả những cuộc ném bom.

Chiều hôm qua, khi đoàn chúng tôi trên đường đến gần khu Vĩnh Linh, bên đường chúng tôi gặp bốn người Việt Nam bị thương nặng. Họ là bốn người lao động đang làm việc trên đồng ruộng, trong đó có những cô gái rất trẻ hầu như còn tuổi thiếu niên, đã bị thương vì mìn nổ. Hàng triệu quả mìn như thế đã được rải trên khắp cánh đồng Việt Nam!

Người dân ở đây đã phải lao động để sinh sống, đã phải làm việc trước mối hiểm họa luôn luôn đe dọa vì hàng triệu quả mìn được rải trên khắp cánh đồng Việt Nam. Chính những thầy thuốc của chúng tôi hôm qua đã góp sức cứu chữa những người bị thương đó. Làm sao có thể biện bạch cho những tội ác đó? Làm sao có thể giải thích rằng, chúng đã rải trên khắp cánh đồng Việt Nam những quả mìn giết người ở những nơi mà dù đứng ở góc độ nào hoặc về phương diện nào mà xét, thì những chỗ đó cũng không hề là mục tiêu quân sự.

Không có một lý do nào về mặt quân sự có thể biện bạch cho việc làm đó và chúng tôi đã thấy rất rõ những điều đó trong thời gian ngắn ngủi ở Việt Nam. Nhưng, ngoài những điều trên, chúng tôi còn thấy biết bao nhiêu điều phi thường đáng khâm phục ở ngay tỉnh Quảng Bình.

Nếu Việt Nam là một nước đã phải chịu nhiều bom đạn nhất hơn bất cứ một nơi nào trên thế giới, thì Quảng Bình là một tỉnh đã chịu đựng nhiều bom đạn nhất ở Việt Nam. Quảng Bình đã bị ném bom hầu như suốt trong tám năm liền.

Nhưng tinh thần Quảng Bình không bao giờ bị giảm sút. Nam cũng như nữ, già cũng như trẻ, kể cả trẻ em, tất cả đã cầm vũ khí để bảo vệ quê hương mình nhưng vẫn tiếp tục lao động trên đồng ruộng và giữ vững sản xuất.

Nhân dân Quảng Bình đã tặng Đoàn chúng tôi một vật kỷ niệm quý nhất, một nắm đất của Quảng Bình, nắm đất đã thấm biết bao mồ hôi và máu của một dân tộc rất đỗi anh hùng.

Nhân dân Việt Nam đã để lại cho chúng tôi một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Sự nhất trí không gì phá vỡ nổi, lòng dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng, tinh thần yêu nước, ý thức cách mạng, tinh thần quốc tế, lòng hăng say, tinh thần chịu đựng hy sinh, lòng yêu Tổ quốc thiết tha, nhiệt tình đấu tranh và lao động của nhân dân Việt Nam đã để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng sâu sắc.

Đồng chí Hồ Chí Minh đã nói, cây muốn mạnh là nhờ ở gốc, nguồn gốc của thắng lợi là ở trong nhân dân. Chỉ có hiểu nhân dân Việt Nam thì mới hiểu được thắng lợi của nhân dân Việt Nam chống chủ nghĩa đế quốc, mới hiểu được làm sao một dân tộc nhỏ và nghèo như thế mà đã chống cự và đánh bại sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc với tất cả sức mạnh quân sự, kỹ thuật, và kinh tế của chúng.

Chỉ có một dân tộc đấu tranh để bảo vệ một sự nghiệp rất chính nghĩa, một sự nghiệp vì tự do, độc lập và những quyền lợi thiêng liêng nhất của mình, và chỉ có một dân tộc với lòng yêu nước sâu sắc và một tinh thần cách phi thường, mới có thể lập nên những chiến công lịch sử như vậy.

Ở nhân dân Việt Nam, chúng tôi đã thấy được rất rõ sự giáo dục của một Đảng cách mạng và những ấn tượng sâu sắc mà những lời giáo huấn của đồng chí Hồ Chí Minh đã để lại trong trái tim và tâm hồn của nhân dân Việt Nam.

Hiện nay, các đồng chí Việt Nam đang thực hiện những nhiệm vụ khó khăn để xây dựng lại đất nước. Chúng tôi một lần nữa xin khẳng định với các đồng chí ở đây rằng, nhân dân chúng tôi sẽ hợp tác với Việt Nam để xây dựng lại đất nước các đồng chí với khả năng và sức lực của mình.

Các đồng chí sẽ không phải cảm ơn chúng tôi về sự hợp tác đó. Chính chúng tôi mới mãi mãi phải cảm ơn các đồng chí về những cống hiến của các đồng chí đối với nhân dân toàn thế giới, những cống hiến phi thường đối với phong trào cách mạng thế giới bằng cuộc kháng chiến thắng lợi, đánh bại sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ…

Nhân dân toàn thế giới và nhân dân Cuba, một bộ phận của thế giới, sẽ mãi mãi biết ơn sự cống hiến của các đồng chí và coi việc được tham gia xây dựng lại Việt Nam là một niềm vinh dự đối với mình.

Không những chúng tôi chỉ đi thăm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà cũng đi thăm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong vùng giải phóng của miền nam Việt Nam. Chúng tôi đã qua ranh giới của lãnh thổ được giải phóng, qua vĩ tuyến 17.

Ở đó, ở hai bên bờ sông Bến Hải, chúng tôi thấy người dân Việt Nam sống và sinh hoạt rất giống nhau. Con người Việt Nam dù ở bên này hay bên kia sông Bến Hải đều hoàn toàn giống nhau, cùng một tiếng nói, cùng một tâm hồn. Ở đây, chúng tôi đã thấy rõ việc chia cắt đất nước này là một điều vô lý, là một tội ác, là một điều không đúng.

Chúng tôi nhớ lại lời của đồng chí Hồ Chí Minh đã nói trước đây: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý Việt Nam là một, không bao giờ thay đổi. Đoàn chúng tôi đi dọc theo đường số 1 trong vùng giải phóng, vượt qua hàng rào điện tử “rất nổi tiếng” của McNamara.

Chúng tôi đã đi thăm những công sự kiên cố của căn cứ Dốc Miếu mà các lực lượng địa phương Quảng Trị đã chiếm lại được cũng như những vị trí khác nằm trên phòng tuyến này. Và trên đường đi tới thị xã Đông Hà, chúng tôi đã đi theo đường số 9 hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Tiếp đó, chúng tôi đã đến thăm tập đoàn cứ điểm mạnh ở phía tây Đông Hà và cao điểm nổi tiếng 241. Ở đó, tại thực địa, chúng tôi đã thấy rất rõ những chiến công rất to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền nam Việt Nam.

Tập đoàn cứ điểm này đã bị đánh chiếm trong một thời gian có mấy ngày. Làm được như vậy trong hoàn cảnh phải chịu đựng những cuộc ném bom và sự khống chế trên không của lực lượng không quân Mỹ, thật là một chiến công khó có thể tưởng tượng.

Ở đây có thể thấy rất rõ khả năng chiến đấu phi thường của lực lượng cách mạng. Chính trên ngọn đồi 241, chúng tôi đã tham dự một cuộc mít tinh của quần chúng cùng với đại diện của các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân.

Ở đây, chúng tôi đã thấy tinh thần chiến đấu rất cao của các chiến sĩ lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân. Tại Cam Lộ, chúng tôi đã họp mặt với các đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và với các vị lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Chúng tôi thấy rất rõ không khí hòa bình và trật tự đang bao trùm lên khắp nơi ở vùng này.

Ở đó, mọi người đang lao động, đồng ruộng đang được cày cấy, đất đai đang được khai khẩn kể cả bằng máy kéo. Trong cuộc đi thăm này, chúng tôi đã có thể thấy việc ký kết Hiệp định Paris là một thắng lợi lớn lao như thế nào đối với nhân dân Việt Nam.

Chúng tôi có thể thấy rõ là việc phủ nhận ở miền nam Việt Nam có hai vùng kiểm soát, hai Chính phủ, hai quân đội là điều vô lý. Chúng tôi không thấy được bọn lính ngụy, nhưng chúng tôi đã thấy và gặp các chiến sĩ quân đội cách mạng. Thật đúng là một quân đội cách mạng! Thật đúng là những chiến sĩ, có hàng chục, hàng chục những anh hùng tuyệt diệu.

Chúng tôi đã có dịp chuyện trò nhiều với họ và chúng tôi nhận thấy rằng những con người như thế không bao giờ có thể bị đánh bại.

Chính tinh thần đó, khí phách đó của những chiến sĩ cách mạng khiến chúng tôi tin tưởng tuyệt đối, hoàn toàn và chắc chắn rằng, sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa vì những quyền lợi thiêng liêng của nhân dân Việt Nam nhất định thắng!

Fidel Castro”.