Tuy nhiên, thực tế những năm vừa qua cho thấy công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, do hạn chế về tài chính và các chính sách liên quan. Đây là bài toán cần sớm giải quyết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ban quản lý và các chủ rừng duy trì hoạt động bảo vệ hiệu quả diện tích rừng được giao...
Tăng cường công tác quản lý
Nghị quyết số 39-NQ/TW (ngày 15/1/2019) của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đã chỉ rõ, thời gian tới phải tiếp tục nâng cao tỷ lệ che phủ rừng và chất lượng rừng.
Các địa phương, đơn vị liên quan cần triển khai quyết liệt các giải pháp ngăn chặn tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng; thống nhất thiết lập, quản lý hiệu quả hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Cần đẩy mạnh giao đất, giao rừng, nâng cao thu nhập và đời sống người làm lâm nghiệp... Theo đó, ngành lâm nghiệp và các địa phương có rừng trong cả nước đã tập trung mọi nguồn lực nhằm quản lý và phát triển rừng, trong đó có công tác quản lý bền vững rừng phòng hộ.
Trên địa bàn tỉnh Lai Châu hiện có khoảng 440.000ha rừng tự nhiên. Việc thực hiện các chính sách đầu tư, hỗ trợ về bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu tích cực, góp phần bảo vệ, phát triển rừng bền vững, cải thiện đời sống những người làm nghề rừng, nhất là đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Nhờ vậy, diện tích rừng và tỷ lệ che phủ rừng tăng theo từng năm.
Giám đốc quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Lai Châu, Tòng Thị Hương đánh giá, từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng, ý thức về bảo vệ chăm sóc và phát triển rừng của người dân nâng lên rõ nét. Giờ không những người dân bảo vệ rừng tốt mà họ còn tự bỏ tiền ra trồng rừng bổ sung, bảo vệ có trách nhiệm rừng phòng hộ đầu nguồn mà không còn trông chờ hỗ trợ từ Nhà nước. Huyện Mường Tè là địa phương có diện tích rừng lớn nhất tỉnh Lai Châu với hơn 140.000ha. Trên địa bàn huyện có đồng bào dân tộc La Hủ sinh sống. Đây là dân tộc rất ít người trong 20 dân tộc đang sinh sống ở tỉnh Lai Châu. Từ xưa, người La Hủ đã quen với cuộc sống du canh, du cư.
Họ chặt cây rừng làm nhà ở, lấy lá cây rừng lợp mái nhà. Khi lá trên mái nhà ngả vàng và rụng xuống thì người La Hủ lại chuyển đi nơi khác. Cũng vì thế người La Hủ còn được gọi là dân tộc “Lá vàng”. Từ khi có các chính sách của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương vận động người La Hủ thành lập bản làng, định canh định cư, vì thế họ đã ổn định cuộc sống, không nay đây, mai đó như trước nữa. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã giúp đồng bào La Hủ đầu tư vào sản xuất, mua giống cây trồng, vật nuôi có giá trị để chăn nuôi, trồng trọt phát triển kinh tế. Người dân không chặt phá rừng, không đốt rừng làm nương; cùng chính quyền bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có.
Tại tỉnh Hòa Bình, nhờ làm tốt công tác quản lý và bảo vệ rừng, những năm gần đây trên địa bàn tỉnh không có các điểm nóng về phá rừng, khai thác rừng vận chuyển lâm sản trái phép, an ninh rừng được giữ vững, tỷ lệ che phủ rừng ổn định hơn 51,5%.
Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hòa Bình Lê Minh Thủy cho biết, để bảo vệ và phát triển rừng, lực lượng kiểm lâm tăng cường kiểm tra các đơn vị trực thuộc, thường xuyên theo dõi, cập nhật diễn biến rừng bằng ứng dụng phần mềm QGIS và máy tính bảng. Từ năm 2021 Chi cục đã hướng dẫn hạt kiểm lâm các huyện trên địa bàn thực hiện chuẩn hóa dữ liệu từ phần mềm QGIS sang (mbtiles) chuyển vào máy tính bảng của kiểm lâm địa bàn để theo dõi, cập nhật biến động về rừng và đất lâm nghiệp.
Chi cục thường xuyên chỉ đạo các đơn vị cơ sở phân công kiểm lâm bám sát địa bàn, tham mưu cho chính quyền các cấp tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về lâm nghiệp và các văn bản liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng đến nhân dân...
Hòa Bình có tổng diện tích rừng tự nhiên gần 461.000ha, trong đó có nhiều diện tích rừng đặc dụng, phòng hộ... Hằng năm, tỉnh đưa vào kế hoạch bảo vệ 75.000ha rừng tự nhiên và rừng trồng, khoanh nuôi tái sinh khoảng 2.500ha, chăm sóc rừng trồng gần 13.000ha, trồng mới từ 7.000 đến 8.000ha rừng kinh tế. Hiện toàn tỉnh đã trồng được 184.000 cây phân tán, 6.300ha rừng tập trung, vượt 7,4% kế hoạch; quản lý, bảo tồn gần 31.000ha rừng đặc dụng, phòng hộ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay, cả nước có khoảng 4,64 triệu héc-ta rừng phòng hộ, bao gồm 3,84 triệu héc-ta rừng tự nhiên phòng hộ đầu nguồn và các loại hình khác như rừng chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng ven biển, rừng bảo vệ môi trường.
Phần lớn diện tích rừng phòng hộ được quản lý bởi các ban quản lý thuộc các cấp khác nhau. Bên cạnh đó, khoảng hơn 330.000 ha rừng đang được cộng đồng, hộ gia đình, lực lượng vũ trang và các bên khác quản lý. Hiện cả nước có gần 400 ban quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ. Hầu hết rừng tự nhiên đang được quản lý có hệ sinh thái quan trọng trên cạn, trên biển và đất ngập nước, trong đó phần lớn là rừng nguyên sinh có các loài động, thực vật quý, hiếm.
Hệ thống rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở Việt Nam đã hình thành trên toàn quốc. Tuy nhiên, hai hệ thống này được quản lý và hoạt động độc lập, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trong khi chức năng lại tương đồng cho nên hiệu quả thấp, lãng phí tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực. Đây là những khó khăn, bất cập cần sớm giải quyết để nâng cao năng lực cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Sớm khắc phục những bất cập
Cục Kiểm lâm đánh giá, thực tế hiện nay, còn có sự bất cập giữa yêu cầu bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ bền vững với các nguồn lực tài chính hạn chế của quốc gia. Hiện tượng phá rừng, lấn chiếm rừng, cháy rừng, khai thác vận chuyển lâm sản bất hợp pháp vẫn đang tiếp diễn do tăng trưởng nóng về kinh tế, áp lực dân số và đất sản xuất nông nghiệp.
Tổ chức bộ máy quản lý rừng phòng hộ chưa thống nhất và chưa ổn định, đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng còn rất hạn chế, và chế độ đãi ngộ thấp. Việc phối hợp tổ chức thực hiện công tác bảo vệ rừng và thực hiện các chương trình, dự án lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, giảm nghèo và phát triển nông thôn... còn khó khăn. Chính quyền các cấp một số địa phương còn đánh giá thấp vai trò của rừng phòng hộ, coi giá trị kinh tế của rừng phòng hộ thấp, nên đầu tư hạn chế. Tăng trưởng nóng về kinh tế, áp lực dân số, việc làm và đất sản xuất nông lâm nghiệp đã dẫn đến các vi phạm lâm luật, trong khi năng lực, quyền hạn xử lý vi phạm của các cơ quan liên quan còn hạn chế.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Trần Quang Bảo cho biết, hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng đặc dụng, phòng hộ đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời gian tới, ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của rừng phòng hộ trong đó có rừng chắn sóng ven biển. Triển khai hài hòa lợi ích các bên; nâng cao chuỗi giá trị, chuỗi sinh kế để bảo đảm lợi ích của người dân và Nhà nước, ưu tiên nguồn lực, có chính sách xã hội hóa. Qua đó sẽ nâng cao hơn nữa quyền lợi cho nhân lực tham gia công tác bảo vệ rừng, góp phần quản lý bền vững rừng phòng hộ trên địa bàn cả nước...
Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chế độ chính sách áp dụng đầu tư tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ. Tuy nhiên, theo các cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp, việc đầu tư cho con người trực tiếp quản lý bảo vệ rừng chưa tương xứng, lực lượng quản lý bảo vệ rừng chuyên trách của các chủ rừng chưa được quan tâm đúng mức. Công việc bảo vệ rừng rất khó khăn, điều kiện lao động ở nơi vùng xa, vùng sâu hẻo lánh, nguy hiểm; tính mạng con người luôn bị đe dọa; nhưng ngược lại tiền lương hiện nay rất thấp.
Bình quân lương của lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của các ban quản lý rừng phòng hộ chỉ từ 3,5 triệu đến 6,5 triệu đồng/người/tháng. Trong khi đó, công việc của lực lượng này rất vất vả, bình quân mỗi nhân viên bảo vệ rừng chuyên trách, phải đảm nhiệm từ 1.000ha rừng trở lên; mùa khô trực phòng chống cháy rừng 24/24 giờ, kể cả ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, ngày Tết.
Do vậy, người làm công tác bảo vệ rừng rất khó hoàn thành nhiệm vụ, tình trạng bỏ việc ở các ban quản lý rừng phòng hộ xảy ra phổ biến. Từ những thực trạng nêu trên, ngành lâm nghiệp đề xuất Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ, có cơ chế tiền lương tương xứng cho lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách, các ban quản lý rừng phòng hộ ■