Dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Nguyễn Kim Sơn, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo; Hầu A Lềnh, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; Nguyễn Đình Trung, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk và đại diện các bộ, ngành Trung ương, Ủy ban nhân dân, Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh Tây Nguyên; các trường đại học trong khu vực…
Hội nghị nhằm triển khai phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết số 23-NQ/TW và Nghị quyết số 152/NQ-CP ngày 15/11/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW.
Nhiều kết quả quan trọng
Báo cáo tại hội nghị, Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc cho biết: Trong giai đoạn 2011-2022, các tỉnh Tây Nguyên đã triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Một số địa phương đã có các chính sách đặc thù tạo chuyển biến tích cực về quy mô và chất lượng giáo dục, góp phần thu hẹp dần khoảng cách giữa các địa phương vùng Tây Nguyên và cả nước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực giáo dục-đào tạo tại khu vực tăng dần qua các năm. Năm 2021, tổng chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực giáo dục-đào tạo là 12.812 tỷ đồng, tăng 56% so với năm 2011… Nhờ đó đến nay, hệ thống mạng lưới trường, lớp học toàn vùng Tây Nguyên được củng cố và phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân.
Đến năm 2022, toàn vùng không còn xã trắng về giáo dục mầm non, tất cả các thôn, buôn đều có lớp mầm non. Tất cả các xã đều có trường tiểu học; các điểm trường, lớp ghép được mở ở hầu hết các thôn, buôn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, tạo cơ hội cho trẻ em dân tộc thiểu số trong độ tuổi đều được đi học.
Hầu hết các xã đã có trường trung học cơ sở, các huyện đều có trường trung học phổ thông. Nhiều địa phương đã xây dựng các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông liên xã. Đến năm học 2021-2022, toàn vùng có 3.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên, tăng 494 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên so với năm học 2010-2011.
Các chính sách phát triển nguồn nhân lực, công tác xóa mù chữ, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm đẩy mạnh. Trong đó, đã tập trung quan tâm tới các đối tượng người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế, xã đặc biệt khó khăn và các đối tượng thiệt thòi khác, góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, giảm nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú được duy trì và phát triển. Đến nay, toàn vùng có 59 trường phổ thông dân tộc nội trú, với khoảng 13.533 học sinh và 68 trường phổ thông dân tộc nội trú với khoảng 12.494 học sinh, trong đó có 49 trường phổ thông dân tộc nội trú được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Chất lượng giáo dục các trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú có nhiều chuyển biến rõ rệt. Trong năm học 2021-2022, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở của các trường phổ thông dân tộc nội trú đạt 99,7%, trung học phổ thông đạt 98,7%. Tỷ lệ học sinh bán trú cấp tiểu học hoàn thành cấp học đạt 98,9%; học sinh bán trú cấp trung học cơ sở hoàn thành cấp học đạt 92%... đã góp phần quan trọng nâng cao trình độ văn hóa cho học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, đồng thời tạo nguồn nhân lực cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn…
Còn nhiều khó khăn, thách thức
Cũng theo Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình phát triển giáo dục-đào tạo ở khu vực Tây Nguyên còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, vướng mắc như: Quy hoạch mạng lưới trường lớp còn bất cập; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Việc rà soát, sắp xếp mạng lưới trường lớp ở một số nơi còn chưa thực sự khoa học, hiệu quả, chưa bảo đảm môi trường học tập cho trẻ em, học sinh.
Các đại biểu dự hội nghị. |
Nhiều cơ sở giáo dục trên địa bàn còn thiếu phòng học, phòng học đã xuống cấp và quá tải, phải học 2 ca, học nhờ, học tạm; thiếu thư viện, nhà vệ sinh, công trình nước sạch. Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập còn thiếu, nhiều thiết bị đã cũ, bị hỏng, xuống cấp không đáp ứng yêu cầu dạy, học theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, nhất là ở các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…
Công tác xã hội hóa giáo dục nhiều nơi còn hạn chế do đời sống nhân dân ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên còn bất cập, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu cục bộ tại các địa phương, trường học. Số lượng giáo viên bỏ việc, ra khỏi ngành có xu hướng gia tăng ở một số địa bàn khó khăn làm tăng thêm áp lực về vấn đề thiếu giáo viên. Tỷ lệ giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 còn cao. Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên được điều động, tăng cường, luân chuyển từ vùng có điều kiện thuận lợi lên công tác vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn còn gặp một số vướng mắc. Chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước…
Phát triển toàn diện giáo dục-đào tạo vùng Tây Nguyên
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được cũng như những khó khăn, tồn tại, vướng mắc trong hoạt động giáo dục-đào tạo thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra mục tiêu phát triển giáo dục-đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030. Đó là đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng cơ bản chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa; nâng cao chất lượng giáo dục, bao gồm giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực ngoại ngữ, tin học; cơ bản đáp ứng được nhu cầu nhân lực của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của vùng; tăng cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao cho đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho người dân học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch mạng lưới trường, lớp hợp lý hơn; củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học. Xây dựng đề án kiên cố hóa trường, lớp tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2025. Nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc đến năm 2030, tầm nhìn 2045, coi đây là khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng. Đến năm 2030, các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng Tây Nguyên tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước…
Tại hội nghị, đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên có nhiều ý kiến chia sẻ và kiến nghị với Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018; việc đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp, mua sắm cơ sở vật chất phục vụ dạy, học; khắc phục tình trạng thiếu giáo viên và các chế độ, chính sách đối với giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa…
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh ghi nhận và đánh giá cao những kết quả đạt được trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo của vùng Tây Nguyên thời gian qua. Tuy nhiên, lĩnh vực này đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, để vùng Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững như Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã đề ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các tỉnh Tây Nguyên cần bám sát các mục tiêu của Nghị quyết 23 để đề ra các nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá nhằm huy động các nguồn lực đầu tư thúc đẩy phát triển toàn diện giáo dục-đào tạo, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, đưa Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững.
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, hội nghị này nhằm bàn sâu, đánh giá đúng tình hình, thống nhất các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo của vùng Tây Nguyên, qua đó góp phần quan trọng triển khai thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã đề ra.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đánh giá: Giáo dục và đào tạo của vùng Tây Nguyên đã đạt được những kết quả quan trọng, nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sự quan tâm của toàn xã hội trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, những chuyển biến của giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên còn chậm; chất lượng nguồn nhân lực chưa cao và còn nhiều thách thức, khó khăn cần tiếp tục nhận diện, có giải pháp phù hợp để khắc phục và phát triển trong thời gian sắp tới.
Tại hội nghị này, lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh và các cơ sở giáo dục trong vùng đã có nhiều ý kiến tâm huyết, thảo luận, nhận diện bức tranh giáo dục vùng Tây Nguyên hiện nay, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm đã làm được trong thời gian qua và kiến nghị, đề xuất nhiều ý kiến bổ ích, xác đáng.
Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổng hợp và đề ra các chính sách, giải pháp mang tính đột phá và phù hợp với tình hình đặc điểm riêng của vùng để thúc đẩy phát triển toàn diện giáo dục vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn 2045, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã đề ra.